Hoàng Sa - nơi tôi đã sống.

Kỳ 1: Quãng đời đặc biệt

Ông Nguyễn Văn Thành - nhân viên thông tin truyền thông trên đảo Hoàng Sa - Ảnh tư liệu.

TT - Cách đây đúng 38 năm, tháng 1-1974, đúng vào dịp tết, Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc xâm chiếm. Từ đó đến nay, chưa bao giờ quần đảo Hoàng Sa bị lãng quên trong lòng người dân Việt.
Và càng không bao giờ bị lãng quên trong ký ức của những người một thời đi giữ Hoàng Sa.

Tuổi Trẻ

Mời bạn ngược dòng thời gian về thăm lại Hoàng Sa cùng họ - những người đã sống, đã chiến đấu bảo vệ quần đảo. Những hồi ức chân thực, những dòng viết nguệch ngoạc này được rút ra từ Kỷ yếu Hoàng Sa do UBND huyện đảo Hoàng Sa thực hiện và công bố mới đây.

Kỳ 1: Quãng đời đặc biệt

Mãi đến nay, đã gần 40 năm qua mà trong ký ức tôi vẫn còn nhớ như in những kỷ niệm vui buồn tại đảo Hoàng Sa. Bởi đó là quãng đời đặc biệt mà tôi đã từng sống và làm việc. Tôi đã từng sống trên đảo hai đợt, mỗi đợt hơn ba tháng.

Ký ức chuyến ra đảo đầu tiên làm tôi nhớ mãi. Phải thú thật là lúc nhận được lệnh đi đảo Hoàng Sa, tôi cũng lo sợ. Mặc dù trước đó có rất nhiều người đã đi, nhưng lần đầu tiên phải xa vợ con trong thời gian dài và không biết cuộc sống trên đảo thế nào.

Tôi còn nhớ thành phần ra đảo lúc đi khá đông, khoảng hơn 20 người kể cả bốn nhân viên khí tượng. Chúng tôi đến từ những vùng quê khác nhau của VN.

Chúng tôi tập trung tại Hội An, đi mua sắm vật dụng cá nhân cho mình, mua lương thực thực phẩm phục vụ cho đoàn cũng như một số vật nuôi, con giống để ra đảo tăng gia sản xuất như heo, gà, vịt, hạt rau muống, hạt đậu xanh...

Sau khi chuẩn bị xong, xe đưa chúng tôi ra Đà Nẵng để lên tàu và xuất phát ra đảo từ đó. Khi được lệnh lên tàu và khởi hành, anh em trên tàu mỗi người mỗi tâm trạng. Nhưng rồi ai cũng có cảm giác hân hoan vì lần đầu được lênh đênh trên mặt biển, để khám phá vùng đất thuộc lãnh hải của Tổ quốc mà mình chưa biết.

Theo kinh nghiệm, nếu thời tiết tốt thì thời gian ra đến đảo mất khoảng 21 tiếng. Tàu của chúng tôi khởi hành khoảng 14 giờ hoặc 15 giờ hôm trước thì hôm sau khoảng 10 giờ hoặc 11 giờ đến. Dù thủy triều cao hay thấp thì trong tàu luôn trang bị xuồng cao su để đưa người và vật dụng lên bờ.

Tại đảo có một chiếc cầu, tạm gọi là cầu cảng. Từ đầu cầu vào nhà ở khoảng 400-500m. Nếu nhớ không lầm thì ở phía bên phải của cầu có một chiếc tàu sắt đã gỉ sét. Nghe những người đi trước kể lại, đó là tàu của bà Ngô Đình Nhu ra đảo chở phân chim bị hỏng và bỏ lại.

Khi bước chân lên đảo tôi thấy ở cầu cảng có đường ray (hẹp hơn đường ray tàu hỏa) và năm chiếc xe rùa, không biết ai đã xây dựng và để lại nơi này. Tất cả anh em dùng những chiếc xe rùa này để di chuyển vật dụng, thức ăn, nước uống vào nhà. Hai bên đường vào nhà toàn là đá vôi, cây phốt phát, cây nhàu và một số cây lạ khác.

Nhà chúng tôi ở trên đảo được xây dựng rất kiên cố, bề dài khoảng 30-40m, bề ngang khoảng 20m. Nhà được ngăn thành bốn phòng: phía bên phải có một phòng để dùng làm nhà kho, một phòng cho binh sĩ ở, phía bên trái một phòng dành cho đảo trưởng và lính truyền tin, còn căn phòng rộng nhất dùng để sinh hoạt. Nhà rất kiên cố nhưng tất cả cửa lớn nhỏ đều đã hư hỏng vì thời gian nên mỗi khi có mưa gió rất cực khổ. Phía dưới nền nhà được đúc suốt dùng làm hầm chứa nước để dự trữ.

Phía trên trần nhà cũng đúc bêtông và được đặt hai khẩu súng đại liên 50 li, một khẩu đã hỏng và một khẩu còn dùng được. Tất cả vật dụng cũng như súng ống và đạn dược thì đảo trưởng cho lau chùi sạch sẽ vô dầu mỡ và cất vào kho. Ngoại trừ có ít lựu đạn đảo trưởng cất giữ để đánh bắt cá. Đây thật ra cũng là chủ ý của đảo trưởng, sợ anh em khi có xích mích, nóng giận mà sử dụng thì rất nguy hiểm.

Trước mặt nhà ở khoảng 150m có một nhà thờ Thiên Chúa giáo, trong có treo một cây thánh giá và tượng chúa Giêsu, thường những anh em có đạo hay đến cầu nguyện. Trước nhà thờ khoảng 50m có một cái giếng dùng được, bên cạnh có một cây dừa. Phía sau nhà ở có một con đường mòn nhỏ mà anh em thường ra đi dạo và đánh bắt cá. Phía bên phải có một cái miếu ở trong cũng thờ tự và cạnh bên có những ngôi mộ phần nhiều là vô danh.

Cạnh nhà chúng tôi ở khoảng 50m là nhà ở của anh em quan trắc khí tượng. Chúng tôi rất mến nhau, thường chia sẻ cho nhau những mẻ cá và anh em có gì ngon cũng đem cho chúng tôi.

Ấn tượng nhớ nhất của tôi là lần đầu dạo quanh đảo, khi đến cầu cảng nhìn xuống biển thấy rất nhiều cá bơi lội, tôi vội ném xuống một quả lựu đạn. Sau tiếng nổ, cả một vùng nước chuyển sang một màu đen sì, ba chúng tôi nhảy xuống bơi lặn mãi mà cũng chẳng tìm thấy con cá nào. Lúc đó tôi có phần run sợ, lạnh nổi cả da gà vì rõ ràng cá bung lên mặt nước rất nhiều. Sau này mới rõ đó là đàn mực đang bơi. Mực không có bong bóng nên không chết tức do tiếng nổ gây nên.

Với tôi, cuộc sống trên đảo khá nhàn rỗi. Ngoài giờ ấn định phải điện để liên lạc hằng ngày với tiểu khu Quảng Nam thì tôi, đảo trưởng cũng như những binh sĩ khác thường xuyên đi đánh bắt cá. Việc đánh bắt cá không chỉ để phục vụ các bữa ăn mà còn phơi khô để lúc về đất liền dùng làm quà. Khi đi ra đảo chúng tôi cũng có chuẩn bị lưới đánh cá. Lúc nước biển bắt đầu cạn, chúng tôi dùng lưới giăng ngang mí sóng (khúc cạn gần bờ) rồi từ trong bờ hè nhau đuổi ra là có cá bắt được. Nhưng khi gặp cá nhám thì chúng sẽ xé tung lưới mà đi.

Những lúc nước xuống nhiều thì chúng tôi lội đi bắt ốc gân, nhiều con rất lớn, có thể bằng chiếc nón. Chúng tôi dùng lưỡi lê xẻ ngay tại chỗ, chỉ lấy cái gân (phần của ốc dùng để khép và mở miệng) đem về xẻ ra phơi khô (còn ngon hơn khô mực) để mang về làm quà. Những lúc không làm gì thì chúng tôi tưới cây, những hạt giống mang theo gieo rất tốt, đậu xanh, rau muống, bí đỏ. Có những quả bí chỉ mới trồng khoảng ba tháng mà rất lớn, một người bê rất khó.

Thức ăn trên đảo qua những ngày đầu nào thịt gà, vịt, heo, đến lúc hết thì chỉ cá và rau cỏ trồng. Nhớ những lúc rau muống chưa kịp lên thì dùng cá nấu với lá ớt làm canh. Ban đêm chúng tôi chia từng tốp dạo quanh đảo tìm những con rùa biển (còn gọi là con vích) lên bãi cát để đẻ. Khi bắt được, chúng tôi lật ngửa nó ra để sáng hôm sau xẻ thịt. Thịt của nó rất ngon, cái thì ăn cái thì phơi khô, riêng trứng thì tròng đỏ đổ (chiên) làm chả, không thể luộc được vì tròng trắng của nó không bao giờ chín. Lúc chẳng biết làm gì thì người đánh đàn, kẻ đánh bài ăn thua nhau bằng thuốc lá hoặc khô cá.

Cuộc sống nhàn rỗi trên đảo khiến anh em buồn và nhớ nhà, thỉnh thoảng lại có một binh sĩ khóc suốt cả đêm liền.

Ký ức của tôi chỉ tạm tái hiện phần nào. Bởi lẽ hơn 40 năm rồi tôi không thể diễn tả hết những gì mình đã nhớ trong quãng thời gian sống trên đảo. Tôi mong sao Chính phủ đấu tranh để giành lại quần đảo Hoàng Sa, giành lấy chủ quyền lãnh hải của Tổ quốc.

NGUYỄN VĂN THÀNH

Kỳ 2: Mấy mươi năm nghẹn ngào.
Tuổi Trẻ


Quân đội Sài Gòn phòng thủ tại Hoàng Sa trước năm 1974 - Ảnh tư liệu.

TT - Lần đầu tiên tôi được ra công tác tại quần đảo Hoàng Sa là giữa mùa thu năm 1971.

Năm ấy tôi 19 tuổi. Chúng tôi lên tàu ở cảng Tiên Sa, Đà Nẵng. Khoảng 16g chiều hôm trước - tàu chạy luôn đêm, đến Hoàng Sa vào 6-7 giờ sáng hôm sau. Những người lên đảo đợt đó có lẽ tôi là người trẻ nhất. Có mặt ở nơi đây, tôi nhớ mãi đó là đợt 45.

Tôi ra đảo để đổi cho đợt 44 đã hết nhiệm vụ. Người đầu tiên tôi gặp là anh Tạ Song - y tá của đợt 44. Cũng như bao người khác mỗi lần công tác là ba tháng, nhưng có đợt hơn thế nữa vì biển động mạnh tàu không ra được để đổi. Tôi ra đảo với nhiệm vụ là y tá, chữa và cấp thuốc cho anh em gặp phải những chứng bệnh thông thường, còn bệnh nặng báo với đảo trưởng xin tàu chở về đất liền.

Phải nói rằng được công tác tại quần đảo Hoàng Sa là một vinh dự lớn đối với những người lính chúng tôi. Song cũng có ít nhiều lo lắng và băn khoăn. Không biết đến Hoàng Sa sẽ ra sao? Vì Hoàng Sa cách đất liền hàng trăm cây số mênh mông biển nước và ở đó những ba tháng.

Tàu đến quần đảo Hoàng Sa hạ neo ngoài khơi. Chúng tôi di chuyển vào đảo bằng thuyền cao su (bơm hơi) có gắn máy nổ. Khi thuyền cao su cập bến, đặt chân lên cầu tàu để đi vào đảo, tôi thật sững sờ khi thấy đường vào đảo hai bên san hô chất cao hơn đầu người, cộng vào đó dây leo bao che kín như vào một hang động. Tôi đứng lặng hồi lâu. Đến khi anh Tạ Song hỏi: ai là y tá đi theo tôi nhận bàn giao? Lúc ấy tôi mới lần bước theo anh.

Ngày đầu tiên sống trên đảo thấy thời gian trôi thật chậm. Nhớ gia đình, nhớ bạn bè, đất liền lắm vì hồi đó tôi quá trẻ. Sau thời gian ngắn cuộc sống vui vẻ và thoải mái hơn vì quen rồi.

Mỗi buổi sáng chúng tôi dậy rất sớm, rủ nhau đi tập thể dục. Nói cho oai vậy thôi chứ tập gì. Đi bộ quanh đảo để tìm những chiếc phao thủy tinh mà tàu đánh cá nước ngoài bị đứt trôi dạt vào đảo. Chúng tôi hay gọi là trái bóng, lấy cất sau này đem về đất liền cắt ra làm chậu nuôi cá cảnh. Hoặc tìm đường đi của mấy chú vích (rùa biển) để đêm lấy trứng về cải
thiện bữa ăn.


Bia chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa trước năm 1974 - Ảnh tư liệu.

Anh Hai Song về đất liền có để lại cho tôi một ít dụng cụ câu cá. Ban đêm thì câu ở cầu tàu, ban ngày lội ra bãi san hô câu. Với đồ nghề câu anh Hai Song để lại, tôi đã câu được con cá khế khoảng 15kg. Cá, ốc ở Hoàng Sa rất nhiều.

Hoàng Sa không có núi nên cây cối cũng không lớn lắm. Ngoài dừa, dương liễu, nhãn thì chẳng có cây nào lớn hơn thế. Vậy mà không nắng nóng lắm, chắc nhờ gió biển. Cũng ở đợt này năm ấy có cơn bão lớn đi ngang qua đảo, biển động mạnh, sóng cao như mái nhà.

Sau hai lần công tác ở đảo, điều mà tôi không quên được đó là hai lần công tác tôi đều gặp được ông Võ Vĩnh Hiệp - ông là người của nha khí tượng Sài Gòn đưa ra để làm công tác khí tượng. Ông là người bị dị tật bẩm sinh cả tay và chân, thế mà ông chơi rất hay nhiều loại đàn.

Ông đã dạy đàn cho tôi hai đợt như vậy. Sau khi bị Trung Quốc bắt ông được trao trả sau năm ngày, tôi đã nhờ ông báo tin cho gia đình tôi là tôi vẫn còn sống và bị giam giữ tại Trung Quốc.

Nếu như thống kê thì ông Hiệp đã sống và làm việc tại Hoàng Sa hơn 30 lần.


Khu đồn trú của lính địa phương quân VN trên đảo Hoàng Sa (ảnh chụp năm 1959) - Ảnh tư liệu.

Lần thứ hai tôi được ra đảo khoảng tháng 10-1973. Đợt ấy là đợt 54. Lần đi này tôi đã có kinh nghiệm hơn vì đã sống ở đây ba tháng rồi. Nên cuộc sống vui vẻ thoải mái hơn nhiều.

Lẽ ra sau đợt công tác này tôi về sẽ cưới vợ, còn khoảng một tuần nữa là về thì bị Trung Quốc đem tàu chiến, binh lính đến chiếm đảo. Lúc ấy có cả đoàn giám sát thiết lập phi trường trên đảo bị kẹt lại, trong đó có một người Mỹ.

Mặc dù chúng tôi đã phân chia nhiệm vụ chiến đấu và giữ lấy đảo vì đảo là chủ quyền của chúng ta. Nhưng lính Trung Quốc đông quá cùng tàu chiến nhiều. Cuối cùng họ cũng chiếm được Hoàng Sa.

Tôi cùng 32 người khác bị bắt về đảo Hải Nam. Sang tàu khác thì có thêm 21 người lính hải quân bị bắt ở đảo khác. Họ đưa chúng tôi về cảng Quảng Châu, Trung Quốc, sau đó đưa chúng tôi về trại thu dung tù binh ở Quảng Châu bằng ôtô.

Ở đây khoảng một tháng, chúng tôi được trao trả cho Hồng thập tự quốc tế ở biên giới Thâm Quyến và Hong Kong. Và Hồng Thập tự quốc tế giao trả chúng tôi cho chính quyền Sài Gòn.

Lâu quá rồi tôi cũng không còn nhớ nhiều về Hoàng Sa, về quang cảnh trên đảo. Nhưng ngôi nhà nguyện, miễu Bà, cầu tàu, giếng nước... luôn ở trong tôi. Và đặc biệt là khu nghĩa trang với khoảng 50-60 ngôi mộ của những người đã sống và bảo vệ đảo, bảo vệ chủ quyền cho đất nước.

Mới đó mà đã gần 40 năm - từ ngày chúng tôi bị bắt đến nay - không có người VN nào được đặt chân lên đảo Hoàng Sa nữa. Nghĩ mà thấy nghẹn ngào...

LÊ LAN.

Trang Chủ

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.