Hoàng Sa - nơi tôi đã sống .

Kỳ 3: Những ngày tháng không bao giờ quên.



Ông Nguyễn Văn Cúc (trái) và đồng đội ở Hoàng Sa năm 1973 - Ảnh tư liệu gia đình ông Cúc.17/01/2012 09:14
Tuổi Trẻ mobile

Cứ đến tháng giêng hằng năm là tôi không sao xua được cảm giác thẫn thờ mất mát, bởi những ký ức về vẻ đẹp hoang sơ của Hoàng Sa cũng như ký ức đau buồn khi chứng kiến Hoàng Sa bị rơi vào tay hải quân Trung Quốc vào ngày 19-1-1974.

Mảng ký ức đó cứ lởn vởn trong đầu, như chỉ xảy ra vào hôm qua.

Tôi có duyên với biển cả, với đại dương và cả với Hoàng Sa. Sinh ra trong một gia đình làm nghề đánh bắt cá, tuổi thơ của tôi gắn liền với biển. Nhưng khi lớn lên, tôi chọn một nghề không liên quan tới biển, vậy mà cuộc đời đưa đẩy tôi lại công tác tại quần đảo Hoàng Sa. Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình may mắn được làm việc, được cống hiến sức trẻ tại mảnh đất thiêng liêng ấy và tôi muốn chia sẻ để mọi người được biết, để con cháu thế hệ mai sau luôn biết rằng Hoàng Sa vô cùng tươi đẹp là một phần của Tổ quốc Việt Nam, hãy ghi nhớ Hoàng Sa là của Việt Nam và hãy giành lại chủ quyền Hoàng Sa. Ước vọng lớn nhất của đời tôi là một lần nữa được đặt chân đến Hoàng Sa để lại được sống trong không khí mát lành của biển cả, xua tan cảm giác nhớ mong. Tôi được điều đi Hoàng Sa để khảo sát, sửa chữa và xây thêm bể ngầm chứa nước mưa, lấy nước ngọt phục vụ cả quần đảo.

Cả thảy tôi ra Hoàng Sa được ba lần. Lần đầu là đầu năm 1973. Lúc đó tôi chỉ ra hai ngày để khảo sát tình hình các bể chứa nước cũ, ước lượng nguyên vật liệu cần thiết để lần sau mang ra đảo. Lúc tàu gần đến đảo, tôi có cảm giác lâng lâng khó tả vì sắp đặt chân lên vùng đất thiêng liêng. Ở trên đảo một ngày, tôi cùng năm người nữa đi tham quan đảo chim. Đây là cảnh tượng làm tôi thích thú và ngạc nhiên nhất khi ở Hoàng Sa. Trên đảo có vô số chim và con vích đẻ trứng, đặc biệt chúng không sợ sự xuất hiện của chúng tôi. Cảnh tượng hoang sơ với những hốc đá và nhiều chim biển làm chúng tôi cảm thấy thích thú.
Lần thứ hai tôi ra đảo là bắt tay vào sửa chữa, xây dựng các bể ngầm chứa nước ngọt. Các bể này xây từ thời Pháp thuộc.

Khoảng 20 bể, mỗi bể chứa khoảng 1.000m3 nước, được xây ngầm xung quanh ngôi nhà để chứa nước mưa từ trên trần nhà đổ xuống. Đây là khoảng thời gian lâu nhất tôi ở Hoàng Sa. Ở trên đảo, một ngày trôi qua rất bình dị, sáng dậy tập thể dục sau đó ăn cơm rồi bắt tay vào làm việc. Công việc được phân chia cụ thể, rõ ràng cho từng người nên ai làm việc nấy, tới giờ ăn trưa, đi ngủ rồi làm tiếp. Buổi chiều khi công việc đã xong, tôi thường lang thang đi dạo xung quanh đảo và hay đến cầu tàu ngồi hóng gió. Đó là những lúc tôi nhớ nhà nhất. Khi tôi ở ngoài đảo thì vợ tôi mang thai đứa con thứ hai. Để quên đi nỗi nhớ nhà, thỉnh thoảng tôi cùng anh em chơi đá bóng hay đi câu cá, bắt ốc. Đó là thú vui chính của chúng tôi.



Đào giếng nước ngọt trên đảo Hoàng Sa năm 1938 - Ảnh tư liệu.

Tôi không nghĩ lần thứ ba ra đảo để lấy mẫu đất, khảo sát thực địa, làm sân bay cũng là lần ra đảo cuối cùng. Khi đã lấy được mẫu đất, khảo sát xong thực địa chúng tôi lên tàu rời khỏi đảo về đất liền. Đang lênh đênh trên biển thì gặp tàu chiến của Trung Quốc. Họ áp sát tàu chúng tôi, buộc quay về lại đảo. Cảm giác bàng hoàng khi trực tiếp chứng kiến Hoàng Sa bị chiếm. Cảm giác đau đớn và xót xa khi thấy mảnh đất của Việt Nam rơi vào tay kẻ khác.

Sau một ngày bị bắt giữ trên đảo, lính Trung Quốc cho tàu nhỏ chở chúng tôi về đảo Hải Nam. Sau đó đưa chúng tôi lên tàu lớn về Quảng Châu - Quảng Đông (Trung Quốc). Chúng tôi ở đó cả tháng trời. Đó là lần đầu tiên tôi đón tết ở nơi đất lạ, cảm giác hờn tủi đau đớn khi ăn tết xa quê hương, vợ con, bên cạnh đó lại mang nỗi niềm chua xót khi Hoàng Sa bị chiếm giữ. Trung Quốc trao trả chúng tôi cho Hồng thập tự quốc tế tại Hong Kong. Tôi là một trong năm người đầu tiên được trao trả. Chúng tôi lên máy bay về sân bay Tân Sơn Nhất. Rồi về Đà Nẵng. Niềm vui được đoàn tụ cùng gia đình, được quay về quê hương đất nước cũng không thể xua tan nỗi buồn mất Hoàng Sa.

Tôi có đôi lời nhắn nhủ con cháu cũng như các thế hệ mai sau là cần phải hiểu rõ lịch sử của Hoàng Sa, về sự gian khổ, khó khăn đi khai phá giữ gìn Hoàng Sa của cha ông từ thời chúa Nguyễn. Luôn ghi nhớ Hoàng Sa là của Việt Nam. Bằng mọi giá phải lấy lại chủ quyền Hoàng Sa cho Việt Nam.

NGUYỄN VĂN CÚC

Vùng đất này chỉ trồng dương liễu và cây nhàu, rất khó có thể trồng được loại rau quả nào. Bên bãi trồng cây dương liễu có một cái miếu, có tượng đồng đen và xung quanh có khoảng 25 ngôi mộ được đắp bằng đất. Người trên đảo nói miếu đó rất linh thiêng. Nghe đâu năm 1968 có ông thuyền trưởng định đưa tượng đồng đen về chùa ở Đà Nẵng để thờ, nhưng khi chuẩn bị vào cúng thì chiếc thuyền cứ xoay vòng, không thể tiến về bến cảng. Ông thuyền trưởng thấy vậy đem tượng trở lại miếu. Tôi ăn tết ở ngoài đảo nên mồng 1 tết tôi có ra miếu để thắp hương.

Ở ngoài đảo sợ nhất là cảnh thiếu nước, chúng tôi sử dụng nước mưa, được chứa ở các bể ngầm xung quanh nhà khí tượng. Tôi đã chứng kiến ba lần bị thiếu nước, mỗi lần kéo dài khoảng 10 ngày. Khát quá nên chúng tôi lấy nước giếng lên để dùng, nhưng nước giếng chỉ uống được khi còn nóng, để nguội rất khó uống. Uống nước giếng này liên tục ba ngày sẽ bị đau bụng, nhưng thuốc men lại không có. Anh em lúc đó chia sẻ với nhau từng thìa đường, miếng sữa. Những lúc đó mới thấm được tình cảm của anh em xa nhà như thế nào.

PHẠM KHÔI

__________
Binh lính và nhân viên Việt Nam đồn trú ở Hoàng Sa đã từng cứu và cưu mang nhiều người Trung Quốc bị nạn. Nhưng...

18/01/2012 07:02
Hoàng Sa - nơi tôi đã sống -
Kỳ cuối: Tiếng chim cuốc Hoàng Sa.
Tuổi Trẻ moblile

TT - 38 năm đã trôi qua. 38 năm làm thay đổi bao nhiêu là sự việc. Nhưng trong tôi 38 năm như chỉ mới hôm qua.



Những phụ nữ Việt Nam trên đảo Hoàng Sa (1940) - Ảnh tư liệu.

Khoảng tháng 10-1973, tôi cầm sự vụ lệnh về tiểu khu để nhận thuốc men đi đảo Hoàng Sa.
Tôi lúc đó tuổi đôi mươi. Không vướng bận vợ con, chút máu lãng tử trong người trỗi dậy. Hơn nữa nghe truyền thuyết kể rằng:

"Ngày xưa triều đình lập đội Hoàng Sa. Khi đưa tiễn và đi giữ biển đảo quê hương, họ được xem như những anh hùng, một đi không trở lại". Còn mình hôm nay tàu to, súng lớn có gì mà e sợ. Chiều hôm đó chúng tôi có mặt tại cảng Tiên Sa. Chiếc tàu "Hương Giang 404" sừng sững uy nghi đang sẵn sàng vượt trùng khơi.

Tập kết lương thực, súng ống xuống tàu xong, tàu nhổ neo. Tạm biệt đất liền chúng tôi vượt biển đến Hoàng Sa. Sau một đêm vật vã vì biển động mạnh, sáng hôm sau tàu đến đảo. Hải đảo Hoàng Sa như một dải cát vàng trải dài trong nắng sớm. Nước quanh đảo xanh như mạ non. Từng đợt sóng lăn tăn đuổi nhau vào bờ, tạo nên một không gian thanh bình yên ả. Tôi thật sự choáng ngợp. Quê hương ta đẹp biết bao! Bàn giao giữa hai toán quân xong, chúng tôi ở lại, anh em đợt trước về đất liền.

Mặt trời lặn xuống biển. Hoàng hôn vừa trùm lên đảo. Bỗng tiếng con chim cuốc trong rừng bàng kêu lên từng hồi, tạo cho cảnh kẻ ở người về buồn man mác. Tiếng cuốc kêu sao da diết nhớ thương.

Rồi thời gian cũng qua đi, chúng tôi thích nghi dần với cuộc sống của một cư dân trên đảo. Chúng tôi chia thành năm tổ, mỗi tổ bảy người. Nhà ở thì có một tòa nhà đúc bêtông, có sân thượng và một vọng gác, trên đó có một khẩu súng 12,7 li, dưới nền nhà là hầm chứa nước mưa để uống. Kế bên tòa nhà của lính là đài khí tượng. Ngoài biển vào có một cầu tàu có đường ray để vận chuyển vào đảo và từ đảo ra tàu nhưng nay đã hư hoàn toàn.

Trên đảo cũng có nhà thờ và chùa nhưng đã hoang phế, chỉ có ngôi miếu là còn tươm tất. Đặc biệt trên đảo Hoàng Sa có một giếng nước ngọt mà các đảo khác không có.



Bia chủ quyền Việt Nam do người Pháp dựng ở Hoàng Sa năm 1938. Trên bia có ghi rõ: Vương quốc Đại Nam 1816 - năm vua Gia Long bắt đầu thực thi chủ quyền của Việt Nam tại các đảo Hoàng Sa - Ảnh tư liệu.

Biển đảo hiền hòa và hào phóng. Cung cấp hải sản không thiếu một thứ gì! Nhưng cũng có lúc nổi cơn giận dữ, biển thét gào với những trận cuồng phong. Những đợt sóng cao như trái núi lừ lừ tiến vào đảo trông thật kinh hoàng, nhưng điều may mắn là Hoàng Sa chưa bao giờ ngập trong sóng biển.

Có một lần biển động, bão đến bất ngờ. Một tàu cá Trung Quốc không kịp vào bờ tránh bão nên đã tấp vào đảo ngay trong đêm. Bão mạnh dần, chiếc tàu cá bị đánh dạt mất giữa biển khơi. Phương tiện không còn, gia đình ngư dân Trung Quốc kia lại trở thành cư dân bất đắc dĩ của đảo. Mặc dù lương thực sử dụng đã được tính toán chi li, nhưng tình người trong cơn hoạn nạn, ai nỡ ăn no để nhìn người khác đang đói. Vậy là toàn đảo sẻ chia, cưu mang gia đình Trung Quốc kia cho đến ngày họ xin được tàu về lại quê hương. Ngày chia tay họ cũng ôm hôn anh em trên đảo, ngôn ngữ bất đồng nhưng trong đôi mắt hiện lên bao sự quyến luyến và biết ơn những người Việt Nam.

Thế rồi những ngày tiếp theo đó, tàu Trung Quốc đến đánh bắt cá tại vùng biển đảo Hoàng Sa càng nhiều hơn. Khi tàu hải quân Việt Nam tuần tra thì họ chạy ra hải phận quốc tế, khi tàu hải quân đi rồi thì họ lại buông neo thả lưới quanh đảo.

Anh em trên đảo chỉ có nhiệm vụ giữ đảo, còn đẩy đuổi ngư dân nước ngoài xâm phạm lãnh hải thì phương tiện không có.

Ba tháng rồi cũng trôi qua, chiếc tàu "Chí Linh 11" đón chúng tôi về lại đất liền, buổi chiều di chuyển ra tàu, con chim cuốc trong rừng bàng lại kêu từng hồi, như nhắn nhủ hãy nhớ về lại với Hoàng Sa. Tàu nhổ neo, chạy một vòng quanh đảo để chào từ biệt.

Đâu biết rằng lần chia tay đó Hoàng Sa chỉ còn trong tưởng nhớ không nguôi. Nhớ đêm chia tay, anh em rủ nhau đốt lửa, thức cùng Hoàng Sa. Tiếng hạ uy cầm của chú Võ Vĩnh Hiệp bên đài khí tượng hòa cùng tiếng hát bên ánh lửa bập bùng. Giữa muôn trùng sóng gió tiếng hát vẫn cất cao như miệt mài, như nhắc nhủ:

"Một ngàn năm... một trăm năm...".

Chiều nay đi giữa quê lại nghe tiếng chim cuốc kêu. Bỗng bồi hồi nhớ đến con chim cuốc ngày nào trên đảo Hoàng Sa. Chắc bây giờ chiều chiều nó vẫn gióng lên tiếng kêu thương khắc khoải hướng về đất liền với bao nỗi chờ mong.

Riêng tôi, khi nào Hoàng Sa còn nằm trong tay kẻ cậy mạnh hiếp yếu, thì tiếng con chim cuốc trong ta sẽ còn mãi kêu lên dù cho nhỏ đến giọt máu cuối cùng, hầu nhắc thế hệ mai sau rằng: "Ta phải về Hoàng Sa".

Tháng 10-1969 nhận được sự vụ lệnh của đơn vị, tôi ra làm đảo trưởng Hoàng Sa cùng 35 người lính và bốn nhân viên khí tượng, với nhiệm vụ giữ an ninh đảo và bảo vệ chủ quyền đảo Hoàng Sa. Đồng thời liên lạc báo cáo tin tức về an ninh, thời tiết khí tượng về đất liền.

Mổ heo cúng đảo xong, sáng hôm sau tôi đi quan sát một vòng trên đảo. Không khí rất ấm áp và dễ chịu với những bãi cát mịn trắng phau. Khi ra bờ biển nhìn xung quanh, tôi thấy những đảo nhỏ phía xa xa. Và ngay tại bờ biển tôi thấy có một nghĩa địa chôn những người đã mất khi làm nhiệm vụ trên đảo. Kế nghĩa địa là miếu Bà. Trong miếu thờ Phật Quan Âm.
Trung tâm đảo có một tòa nhà chính và kế bên là nhà khí tượng. Tòa nhà chính do Pháp xây cất lúc nào trên đảo chúng tôi không biết. Nhưng tòa nhà rất chắc chắn với tường dày đến 2m để chống chọi lại những cơn bão. Khi trở về, tôi đã ghi lại trên đường theo thứ tự của những đợt ra quân giữ gìn đảo từ đợt 1 đến đợt 36 và tôi là đợt 37 (tháng 10-1969).

Mặc dù tháng 10 nhưng thời tiết ngoài đảo rất ấm áp. Mỗi ngày chúng tôi đi quan sát xung quanh đảo và báo cáo tin tức an ninh cùng thời tiết khí tượng về đất liền.

Sau hơn ba tháng trên đảo, đã đến ngày chúng tôi và bốn nhân viên khí tượng trở về đất liền để đợt mới ra thay. Chúng tôi náo nức trở về đất liền và mang theo những luyến tiếc, những kỷ niệm vui buồn cùng Hoàng Sa - một quần đảo thân yêu của đất nước mà nhiệm vụ của chúng ta bây giờ là phải tranh đấu mãi mãi.

NGUYỄN VĂN ĐỨC (nguyên đảo trưởng Hoàng Sa)




Trang Chủ

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.