Giải quyết vấn đề Mỹ-Trung Quốc. Sự hoài nghi chiến lược .

Nhận biết sự hoài nghi chiến lược : Phía Hoa Kỳ.

Các nhà lãnh đạo Mỹ nhìn thấy bằng chứng phong phú mà Trung Quốc tự xem là Số Hai và giả định rằng Hoa Kỳ, là Số Một, sẽ không thể tránh được việc cố gắng tổ chức lại sự nổi lên của Trung Quốc.

[caption id="attachment_2895" align="alignleft" width="300" caption="Addressing U.S.-China . Strategic Distrust
Kenneth Lieberthal and Wang Jisi."][/caption]Kenneth Lieberthal và Wang Jisi.
Bảng tiếng Anh

BHM Lược dịch.

Sự mất lòng tin chiến lược với Trung Quốc không phải là quan điểm chiếm ưu thế hiện nay của các nhà hoạch định quốc gia Hoa Kỳ. Quan điểm đồng thuận của họ đúng hơn là nhìn thấy triển vọng, cả Bắc Kinh và Washington thông qua các chính sách dẫn đến loại quan hệ lâu dài, mà người ta hy vọng mô tả về mối quan hệ hợp tác cơ bản giữa hai cường quốc. Mối quan hệ ao ước Mỹ-Trung Quốc vào những năm 2020 sẽ bao gồm các nỗ lực làm giảm xung đột nếu có thể, hợp tác hoặc ít nhất hoạt động theo phong cách song song một cách rộng rải, để cung cấp các tài sản thuộc cộng đồng toàn cầu và khu vực như là an ninh hàng hải và giảm phát khí thải gây hiệu ứng nhà kính, và để tối đa hóa lợi ích song phương lẫn nhau. Điều này báo trước rằng sẽ không thiếu những va chạm -- những quốc gia có lợi ích sẽ mâu thuẩn với các quốc gia khác, và nền văn hóa của họ rất khác nhau, hệ thống, và lịch sử hiện đại -- sẽ có nghĩa là những quan điểm khác nhau về nhiều vấn đề là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, theo các điều kiện mà cả hai bên tìm kiếm cho những kết quả "cả hai cùng thắng", qua đó có thể và cố gắng giảm thiểu thiệt hại, ở đó điều này là không thể.

Thái độ hiện nay của Mỹ là như vậy, tin rằng nó là khả thi và mong muốn phát triển một mối quan hệ cơ bản mang tính xây dựng, trong dài hạn với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Theo quan điểm này, sự trổi dậy của Trung Quốc có thể mang lại nhiều sự phát triển tích cực. Nhưng nó là rất quan trọng rằng, một Trung Quốc hùng mạnh và thịnh vượng, chính nó trở thành một quyền lực quan trọng có trách nhiệm, tôn trọng các thỏa thuận và các quy tắc quốc tế, thấy rỏ những khả năng cho cả hai quốc gia đóng vai trò chủ chốt trong khu vực châu Á năng động, và khuyến khích hợp tác Mỹ-Trung trên các vấn đề toàn cầu quan trọng. Cách thức Trung Quốc xem xét những suy nghĩ chính thức của Mỹ dể nhận thấy nhất hiện nay là, sẽ có một tác động quan trọng trong khu vực và trên toàn cầu nhưng, không nhắm tới những khả năng gia tăng của nó, đặc biệt để giảm bớt và gây bất lợi cho Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, những người ra quyết định của Hoa Kỳ cũng nhìn thấy tương lai của Trung Quốc là rất giới hạn về thời gian. Thái độ trên là dựa trên một lạc quan tương đối, tập hợp các giả định những điều mà họ nhận ra, có thể chứng minh không chính xác trong thực tế. Một mục tiêu của chính sách của Mỹ là như vậy, làm cho lạc quan tương đối này tập hợp các kết quả có nhiều khả năng, nhưng đó cũng là công nhận rõ ràng rằng, nó là cần thiết để có thể đối phó với những khả năng mà những sự việc có thể di chuyển theo một hướng khác.

Như vậy, mặc dù mục tiêu của Mỹ khẳng định về bản chất hiện nay, có những lo ngại về một loạt các phát triển bên phía Trung Quốc, và cũng là cuộc tranh luận về cách tiếp cận hiệu quả nhất, Hoa Kỳ có thể làm để thúc đẩy những hành vi mong muốn của Trung quốc. Những lo lắng ở điểm này không đủ gây ra cho các nhà hoạch định chính sách quốc gia quyết định rằng quan hệ Mỹ-Trung chắc chắn sẽ đi đến chổ tổng bằng không trong tự nhiên (ở đó mỗi đạt được cho bên này là một tổn thất cho bên kia). Những mối quan tâm cơ bản -- và lý do đối với chúng -- như sau.

Thay đổi cấu trúc trong hệ thống quốc tế

Các nhà lãnh đạo Mỹ -- khác biệt với các học giả và các chuyên gia thuộc nhiều vấn đề -- có xu hướng không suy nghĩ về lý thuyết vĩ đại trong việc chuyển giao quyền lực bá quyền, xung đột của các nền văn minh, hoặc giải thích bao quát các cấu trúc khác của chính trị toàn cầu. Họ tập trung vào những vấn đề cụ thể nhiều hơn, ngay cả khi họ suy nghĩ về lãnh vực của các nguyên tắc và phương pháp tiếp cận toàn cầu để đối phó với những vấn đề quan trọng. Cách tiếp cận này có xu hướng giảm nhẹ các khái niệm chắc chắn sẽ xảy ra của những kết quả, và cho phép một vai trò lớn hơn đối với một chính sách ngoại giao sắc sảo và đối với cơ hội. Nhưng trong bối cảnh này, thực tế là tác động toàn cầu và việc xếp hạng đã tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây của Trung Quốc, và rằng Mỹ đang trải qua những khó khăn nghiêm trọng trong nước, tự tạo nên sự nhạy cảm đặc biệt không chắc chắn. Điều này có bốn thành phần cơ bản liên quan đến mức độ của các nhà lãnh đạo Mỹ về việc tin tưởng chiến lược của Bắc Kinh.

    • Các nhà lãnh đạo Mỹ nhìn thấy bằng chứng phong phú mà Trung Quốc tự xem là Số Hai và giả định rằng Hoa Kỳ, là Số Một, sẽ không thể tránh được việc cố gắng tổ chức lại sự nổi lên của Trung Quốc. Thái độ này tràn ngập các phương tiện truyền thông Trung Quốc và cũng rõ ràng hiển nhiên trong nhiều nguồn cung cấp thông tin khác từ Trung Quốc. Quan điểm này khiến nhiều người Mỹ hàng đầu lo lắng rằng Trung Quốc tìm cách thay thế Mỹ như là Số 1 và xem xét quan hệ Mỹ-Trung Quốc trong quan hệ tổng bằng không về bản chất. Trong phạm vi mà Trung Quốc đã, đang và sẽ tiếp tục giữ những quan điểm này, một số quan chức đồng ý rằng nó chỉ là thận trọng đối với Hoa Kỳ để giả định rằng, Trung Quốc nhìn thấy lợi ích của nó trong khả năng yếu đi của Mỹ, và rằng Hoa Kỳ cần giải thích và phản ứng lại với những hành động của Trung Quốc trong phạm vi này.

    • Quân đội của Trung Quốc đang đầu tư mạnh vào phát triển lực lượng dự báo khả năng ở Tây Thái Bình Dương, với một khả năng nhìn theo hướng tăng cường tiếp cận toàn cầu của nó trong những thập kỷ sắp đến. Những thủ đắc gần đây của PLA (chẳng hạn như tên lửa chống hạm, máy bay chiến đấu tàng hình, và tàu sân bay) chắc chắn đe dọa, siết lại tính linh hoạt của quân đội Mỹ trong Tây Thái Bình Dương, mà Hoa Kỳ xem như là một khu vực quan trọng cho tương lai của nó. Có quá ít tương tác giữa quân đội Mỹ và quân đội Trung Quốc để cung cấp sự bảo đảm đáng tin cậy rằng, những phát triển không có khả năng bất lợi đến lợi ích của Mỹ trong việc duy trì đồng minh của nó và bảo vệ chính sách ngoại giao rộng hơn cùng lợi ích thương mại của nó trong khu vực. Một số PLA viết rằng, khẳng định mong muốn rộng lớn, hạn chế quân đội các nước khác có thể hoạt động trong "vùng biển gần" (jinhai); tăng cường các mối quan tâm này. Những nhà lập kế hoạch quân sự của Mỹ giải thích những mong muốn và thủ đắc khả năng đặc biệt này của Trung Quốc là thiết kế cuối cùng, để từ chối các lực lượng Mỹ tiếp cận và khả năng hoạt động tự do hàng hải ở những khu vực bên ngoài lãnh hải của Trung Quốc. Nhưng tiếp cận và tự do hoạt động như vậy được coi là quan trọng đối với an ninh của Hoa Kỳ và của bạn bè cùng đồng minh của nó. Kết quả là lập kế hoạch dự phòng và những chương trình thủ đắc về phía Mỹ để bảo đảm rằng Trung Quốc không thể thành công trong việc thực thi một chiến lược chống truy cập và khắc chế khu vực mà có thể buộc các lực lượng Mỹ phải giản xa biên giới Trung Quốc trong thời gian xung đột.

    • Người Mỹ, bao gồm cả các nhà lãnh đạo Mỹ, đã bị sốc bởi cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế và quan tâm sâu sắc đến các rối loạn chức năng của hệ thống chính trị Mỹ, khi họ tìm cách đưa đất nước trở lại lối củ. Trong bối cảnh này, hiện hửu tình trạng nhạy cảm hơn với tiềm lực của các nước khác cố gắng tận dụng lợi thế từ những khó khăn này của Hoa Kỳ, để hạn chế những cơ hội hồi phục của Mỹ. Nhiều hành động của Trung Quốc, đặc biệt là trong các lĩnh vực kinh tế và thương mại, đang được nhìn thấy tại ít nhất một phần, là có mục tiêu này. Như giải thích chi tiết hơn dưới đây, điều này đặc biệt đúng trong việc trộm cắp sở hữu trí tuệ không gian mạng của Mỹ, chính sách hám lợi được xem là trực tiếp làm xói mòn tính cạnh tranh sản phẩm của Mỹ trong các ngành công nghiệp trọng điểm và chính sách tiền tệ, qua đó hạn chế xuất khẩu của Mỹ với thị trường nội địa Trung Quốc ngày càng tăng.

    • Khi khả năng kinh tế và quân sự của Trung Quốc phát triển, các quốc gia trên khắp châu Á chắc chắn phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của họ. Lời lẻ và hành động của Trung Quốc khuyến khích những nước khác ở châu Á ít tin tưởng vào tương lai của Mỹ trong khu vực, gây ra những mối quan tâm nghiêm trọng.

Trong ngắn hạn, rất rỏ ràng rằng Trung Quốc đã nổi lên nhanh chóng tại một thời điểm mà Hoa Kỳ trải qua những khó khăn nghiêm trọng, tạo nên một khuynh hướng nhạy cảm với những quan điểm, hành động của Trung Quốc, và công khai những mong muốn, mà trong nhiều cách khác nhau, góp phần vào làm mất lòng tin chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc.

Hệ thống giá trị và chính trị

Các lãnh đạo Mỹ tin rằng nền dân chủ vốn là đáng tin cậy hơn những hệ thống độc tài. Điều này xuất phát một phần từ một kết luận phân tích rằng hệ thống độc tài vốn dĩ lo lắng nhiều hơn cho sự ổn định trong nước của mình và do đó, sẵn sàng thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc và tạo ra những cuộc khủng hoảng quốc tế để bảo đảm sự ổn định ở nhà. Điều này lần lượt làm cho biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ và biểu lộ mối quan tâm cấp quốc gia về sự ổn định trong nước ở Trung Quốc, những biểu lộ đáng lo ngại của các nỗ lực tiềm tàng chống Mỹ thích ứng với (hoặc bắt nguồn từ) những áp lực trong nước. Điều này là trường hợp đặc biệt khi Trung Quốc, thường là trường hợp tuyên truyền ở trong nước, đổ lỗi cho Hoa Kỳ về những bất mãn trong nước và bất ổn xã hội của họ.

Hệ thống chính trị độc tài cũng còn được xem là vốn dĩ ít đáng tin cậy bởi vì chúng ít minh bạch. Hệ thống của Trung quốc cẩn thận đặc biệt che giấu những quá trình chính trị cốt lõi của nó -- chẳng hạn như lựa chọn các nhà lãnh đạo hàng đầu và những tương tác dân sự-quân sự -- ra khỏi tầm quan sát từ bên ngoài. Các nhà lãnh đạo Mỹ không làm thế, do đó, hiểu rỏ làm thế nào phối hợp tốt với dân chúng / khía cạnh ngoại giao ở những thứ như những hành động TRÙ TÍNH ở biển Đông ( biển Nam Trung Quốc ) hoặc thử nghiệm chuyến bay đầu tiên của một máy bay chiến đấu tàng hình. Sau này, ví dụ, xảy ra chỉ khi Bộ trưởng Gates đến Bắc Kinh trong tháng 1 năm 2011 để thiết lập lại đối thoại quân sự cao cấp Mỹ-Trung Quốc, và được xem bởi nhiều người ở phía Mỹ, như là một xúc phạm trực tiếp đối với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ. Nói rộng hơn, trong chính trị nối ngôi, nó là rất khó khăn đối với bên ngoài để hiểu những tuyên bố và hành động gì được định hình bởi nhiều cân nhắc chính trị nội điạ, hơn là những ý định có liên quan đến nước ngoài. Sự thiếu minh bạch này làm tăng sự không chắc chắn về những ý định chiến lược của Trung quốc đối với Hoa Kỳ.

Quá ít sự hiểu biết về trách nhiệm thực sự của hệ thống chính trị Trung Quốc ra làm sao, cũng dễ dàng dẫn dắt tầm nhìn của Mỹ đối với những quyết định của Trung quốc đang làm như chiến lược, phối hợp, và xử lý kỷ luật. Những kết quả mâu thuẩn ô hợp được sản xuất bởi các sáng kiến không phối hợp tương đối ​​của các Bộ khác nhau, các doanh nghiệp và địa phương, do đó, thường được coi là một phần của một mạng lưới liền mạch từ chính sách của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị phác thảo, gây nhầm lẫn và đánh lừa các nhà hoạch định chính sách của Mỹ. Thiếu khả năng để thực hiện các cam kết với phía Mỹ -- (ví dụ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hoặc trên các quy tắc liên quan đến mua sắm của chính phủ) có xu hướng được xem như là những biểu hiện giả dối, khi trong nhiều trường hợp, họ có thể do bởi những hạn chế vốn có về năng lực của thẩm quyền trung ương trong thực tế -- thực hiện đầy đủ một cách nghiêm ngặt một chính sách trong cả nước. Trong ngắn hạn, các nhà lãnh đạo Mỹ thường không hiểu đầy đủ hệ thống chính trị trong nước của Trung Quốc để xác định với sự tự tin, qua đó nhũng kết quả làm hại lây các quyết định chiến lược bởi các nhà lãnh đạo quốc gia của Trung Quốc, và điều đó thay thế làm hại lây tính năng động vốn có của hệ thống chính trị đang ngoài tầm kiểm soát (và đôi khi chống lại những mong muốn) của những nhà lãnh đạo đó. Họ cũng có xu hướng đặt vấn đề về giải thích của các đối tác Trung Quốc -- khi họ khẳng định không đủ năng lực trong nước như là một lý do không đáp ứng được những cam kết -- xem những lời giải thích này là vị kỷ và không trung thực.

Mỹ cũng từ lâu đã tin rằng hệ thống chính trị dân chủ vốn đã hợp pháp trong nước nhiều hơn và do đó, vốn dĩ ổn định hơn và rằng các quan chức trong hệ thống dân chủ có một sự hiểu biết tốt hơn về bản chất của chính trị tại chính Hoa Kỳ. Được cảm nhận rằng các quan chức trong nền dân chủ là, do đó, ít có khả năng đánh giá sai những gì là cận biên và những gì là trung tâm trong nền chính trị Mỹ - và do đó ít có khả năng đổ tội cho ý định thù địch của Mỹ khi những người không có trách nhiệm xúc phạm sự việc. Điều này, đến lượt nó, làm cho nó ít có khả năng rằng
những hành vi thù địch sẽ phát sinh giữa Mỹ và các nền dân chủ khác.

Với giá trị cơ bản của Mỹ, những gì được xem là vi phạm quyền con người (đặc biệt, vi phạm các quyền dân sự) ở Trung Quốc và các nước khác làm cho đặc tính chính trị của nó rất khó khăn cho chính phủ Mỹ, để bảo đảm các hành động với các nước như vậy nhằm mục đích trên hết là để xây dựng lòng tin lẫn nhau. Mỹ có xu hướng nghi ngờ sâu sắc các nước đang chà đạp lên các quyền dân sự của công dân họ. Vì lý do lịch sử, thực tế mà Trung Quốc đang điều khiển bởi một đảng cộng sản trong một hệ thống độc đảng vốn tạo ra mối nghi ngại trong số nhiều người Mỹ, bao gồm cả cán bộ cao cấp, và làm cho nó vẫn còn khó khăn hơn để thiết lập đầy đủ tin tưởng lẫn nhau. Yếu tố này là tinh tế hơn trong quá khứ nhưng vẫn còn là một yếu tố trong cân bằng niềm tin.

Ngoại giao.

Như đã nói ở trên, thái độ cơ bản của Mỹ đối với sự nổi lên của Trung Quốc là rằng, một Trung Quốc giàu có mà đóng một vai trò lớn hơn trên thế giới, được chào đón với điều kiện Trung Quốc tìm kiếm để là một cầu thủ có tính xây dựng tương đối, trong các vấn đề khu vực và toàn cầu. Trong vài điều chi tiết hơn, các lãnh đạo Mỹ nhận ra rằng Trung Quốc là một tay chơi đáng kể trong nền kinh tế khu vực và thế giới, mà nước Mỹ không thể hạn chế đáng kể sự tăng trưởng của Trung Quốc và không nên xem làm như vậy là điều mong muốn, trong bất kỳ trường hợp nào. Thật vậy, họ cảm thấy phần lớn có lợi thế đáng kể cho Mỹ trong việc làm giàu khi có sự hội nhập nhiều hơn của Trung Quốc trên toàn cầu.

Đồng thời, cân nhắc kỷ của Mỹ không còn coi Trung Quốc như là một nước đang phát triển, đặc biệt là đối với tổng GDP và dự trữ ngoại hối phi thường của Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ, do đó, mong đợi Trung Quốc có tăng cường cả hai hay không : tiêu chuẩn toàn cầu và các chế độ liên quan ; bao gồm liên quan đến các vấn đề như phổ biến hạt nhân và ngày càng đảm nhận gánh nặng lớn hơn mà các cường quốc chủ chốt phải chịu cung cấp các loại tài sản công cộng khác nhau của hệ thống toàn cầu và khu vực. Họ lo lắng về khả năng hành vi trong tương lai của Trung Quốc khi họ thấy Bắc Kinh làm quá ít để có những trách nhiệm rộng lớn hơn vào lúc này.

Đối với nhiều lý do, mặc dù Trung Quốc lặp đi lặp lại bảo đảm rằng không tìm cách đẩy Mỹ ra khỏi Á châu, các nhà lãnh đạo Mỹ vẫn còn quan ngại sâu sắc rằng Trung Quốc tìm cách thống trị khu vực với cái giá đáng kể đối với ảnh hưởng và lợi ích của Mỹ ở đó. Nhiều khía cạnh ngoại giao khu vực của Trung Quốc trong năm 2010 tăng cường các quan tâm cơ bản. Ví dụ, Trung Quốc một mực khăng khăng phản đối đề nghị tập trận hải quân Mỹ-Hàn trong biển Hoàng Hải -- để đáp ứng với một sự khiêu khích của Bắc Triều Tiên -- trên cơ sở rằng một tàu sân bay trong vùng biển quốc tế ở Hoàng Hải là ngầm đe dọa an ninh của Trung Quốc. Và Bộ trưởng Bộ ngoại giao Dương Khiết Trì mắng Ngoại trưởng Clinton xía vào những công việc mà Hoa Kỳ không nên quan tâm tại Diễn đàn Khu vực ASEAN họp tại Hà Nội, nơi mà Bà Bộ trưởng đã bày tỏ ý kiến ​​về vấn đề Biển Đông ( biển Nam Trung Quốc) . Bởi vì Hoa Kỳ coi châu Á là khu vực quan trọng nhất trong thế giới cho các lợi ích lâu dài của Mỹ, đặc biệt nhạy cảm đối với ý nghĩa tiềm năng dài hạn của hành động Trung Quốc ở châu Á, qua đó cho rằng Trung Quốc là một trong hai giả định : một tư thế bá quyền đối với khu vực, hoặc đặc biệt tìm kiếm hạn chế sự hiện diện và các hoạt động của Mỹ ở đó.

Kinh tế và Thương mại

Sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế hàng năm nhanh chóng của Trung Quốc trong suốt các cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính toàn cầu và nhận thức rằng chính sách của Trung Quốc đang ngày càng trở nên hám lợi đã tạo ra lo ngại rằng Trung Quốc tìm cách duy trì tăng trưởng nhanh chóng của nó với cái giá trực tiếp từ Hoa Kỳ. Trong phạm vi bài tường thuật này, một số vấn đề cụ thể đặc biệt là sự nghi ngờ nảy sinh ra về động cơ của các nhà lãnh đạo của Trung Quốc :

    • Hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ. Mặc dù đặc tính pháp luật tương đối cao và các quy định và việc tham gia của Trung Quốc vào các công ước quốc tế thích đáng quan trọng, đang diển ra hành vi trộm cắp có quy mô đối với tài sản trí tuệ, tạo ra ấn tượng rằng hành vi trộm cắp này là một phần không thể thiếu của phát triển quốc gia và chiến lược quốc phòng của Trung Quốc. Nghi ngờ này đã gia tăng khi các cuộc tấn công không gian mạng từ Trung Quốc trong những năm gần đây đã dẫn đến sự mất mát những số lượng khác thường các dữ liệu thuộc khu vực tư nhân độc quyền, thêm vào đó, các thông tin quân sự nhạy cảm chẳng hạn như dữ liệu kỹ thuật cho máy bay chiến đấu F-35 mới. Vấn đề tiếp tục tăng bởi các chính sách của Trung Quốc rằng thực sự yêu cầu chuyển giao công nghệ những thứ được truy cập vào thị trường Trung Quốc, đặc biệt là trong công nghệ xanh, mới.Trong nhiều trường hợp, các nhà lãnh đạo Mỹ đã thấy rằng thỏa thuận chia sẻ công nghệ được đòi hỏi như là một điều kiện gia nhập vào thị trường Trung Quốc đã dẫn đến trộm cắp công nghệ và sử dụng công nghệ đó (kết hợp với những trợ cấp khác nhau và hỗ trợ khác của Trung Quốc cho các công ty của họ) hất cẳng các công ty Mỹ ra khỏi kinh doanh.

    • Tiền tệ chính sách. Trung Quốc kiểm soát giá trị của Nhân dân tệ, giữ nó bên dưới mức xác định của thị trường, được xem như là một trợ cấp trên phạm vi rộng đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc đến Mỹ và thuế xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc. Đặc biệt trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khi Mỹ đang tập trung cao điểm vào việc tạo ra công ăn việc làm trong các lãnh vực sản xuất và xuất khẩu, chính sách tiền tệ ở mức tối thiểu này được xem là thể hiện sự thờ ơ với lợi ích quan trọng của Mỹ .

    • Khó khăn về vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù Trung Quốc than phiền hạn chế của Mỹ về xuất khẩu một số công nghệ cao sang Trung Quốc, Bắc Kinh xuất bản định kỳ một danh sách tự đắc cao độ các lãnh vực, qua đó đầu tư nước ngoài bị cấm hoặc hạn chế. Điều này đi vượt xa các vấn đề an ninh quốc gia và ý nghĩa của chính sách bảo hộ, trực tiếp gây hại cho lợi ích kinh tế của Mỹ. Thực tế là rất nhiều những hạn chế này ảnh hưởng đến các lĩnh vực mà các công ty Hoa Kỳ có tính cạnh tranh cao -- Chẳng hạn như dịch vụ tài chính -- gia tăng quan tâm rằng Trung Quốc đang chuẩn bị phát triển nền kinh tế của nó nhắm vào, cái giá không công bằng cho phía Mỹ.

    • Các kim loại đất hiếm. Áp đặt của Trung Quốc trong việc hạn chế đáng kể về xuất khẩu kim loại đất hiếm, một loại mà Trung quốc đã trở thành nguồn cung cấp trên 90% chất này trên toàn cầu, tạo ra mối quan tâm đặc biệt về cách tiếp cận chiến lược của Trung Quốc với thương mại. Kim loại đất hiếm là rất quan trọng cho các sản phẩm quân sự và dân dụng, đặc biệt là trong các lãnh vực thiết bị điện tử và năng lượng sạch. Mặc dù Trung Quốc giải thích sự hạn chế của nó chủ yếu trên cơ sở môi trường, nó tạo ra một tình huống mà theo đó, trong năm 2011 các công ty có thể được truy cập nhận đủ số lượng các kim loại này với điều kiện họ phải di chuyển cơ sở sản xuất của họ sang Trung Quốc, đòi hỏi này ủng hộ việc đưa công nghệ của họ ở vào tình trạng gia tăng nguy cơ bị trộm cắp. Bất kể ý định thực sự của Trung Quốc, vấn đề này đã được xử lý trong một cách làm tăng rất nhiều mối quan tâm, đó là Bắc Kinh sẽ hoạt động như thế nào khi nó trở nên có thể ra lệnh cho những tác động trong một mảng rộng lớn hơn của những lãnh vực và các vấn đề.

Tất cả các vấn đề trên làm tăng mối quan tâm trong những lãnh đạo Hoa Kỳ, mặc dù tuyên bố ngược lại, Trung Quốc có thể nhìn về tương lai với Mỹ trong quan điểm tổng bằng không. Các kết luận tiêu cực về ý định của Trung Quốc dựa trên những mối quan tâm kinh tế và thương mại này có thể được cảm thấy mạnh mẽ hơn đôi chút trong số những người lãnh đạo chính trị hàng đầu của Mỹ, hơn là trong số những quan chức chỉ tham gia trong khía cạnh kinh tế của mối quan hệ Mỹ-Trung Quốc.
.
Thể chế hoá sự mất lòng tin.

Mất lòng tin chiến lược đã được thể chế hoá một phần trong hệ thống Mỹ (như nó có trong hệ thống của Trung Quốc). Mỗi cơ quan riêng biệt, trong thực tế rất lớn và đa dạng, và nó là không chính xác đối với thuộc tính một cái nhìn duy nhất từ bất kỳ cơ quan quan trọng đặc biệt nào. Tuy nhiên, có những quan điểm được tổ chức bởi những quan chức quan trọng liên quan đến các vấn đề đặc biệt phù hợp với các cơ quan của riêng họ. Dưới đây nêu bật một số trong những số này.

Quân sự

Quân đội Mỹ, giống như bất kỳ quân đội nào khác, được giao giả định những trường hợp tồi tệ nhất và sau đó, trên cơ sở ấy xây dựng khả năng và kế hoạch bảo vệ đất nước và lợi ích quan trọng của nó. Trung Quốc hiện nay có một quân đội mạnh mẽ nhất trên thế giới, và nó tăng khả năng quân sự của mình nhanh hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Nhận thức của Mỹ là quân đội Trung Quốc dường như ưu tiên hàng đầu để phát triển khả năng phác thảo những kế hoạch quan trọng nhắm mục tiêu vào nền tảng quân sự của Hoa Kỳ -- chẳng hạn như tàu sân bay và vệ tinh -- và quân đội Trung Quốc, trong tiêu chuẩn quốc tế, không minh bạch như khả năng của mình, và cũng không minh bạch trong những gì là khả năng và học thuyết mới, sẽ áp dụng để đối phó với các mối đe dọa chiến lược chính yếu mà nó phải đối mặt trong những năm tới.

Tin tưởng được sinh ra khi kế hoạch dài hạn của một quốc gia đưọc nhận biết và hành động của nó tương ứng đại khái với những kế hoạch đó. Trong trường hợp của Trung Quốc, kế hoạch quân sự của nó trong các khu vực trọng điểm đã không được làm rõ. Các Bạch Thư của quân đội, ví dụ, không có những đoạn liên quan về khu vực, qua đó phác thảo những gì là lợi ích của Trung quốc trong các khu vực khác nhau của thế giới. Trong khi đó, quân đội Trung Quốc xây dựng trên toàn thế giới tình báo không gian, thông tin liên lạc, và hệ thống định vị, cũng như tàu sân bay và máy bay đổ bộ.

Với việc nhắm mục tiêu cụ thể là các nền tảng lớn của Mỹ và thiếu minh bạch về chương trình vũ khí của nó, quân đội Mỹ bị ngạc nhiên khó chịu một cách định kỳ, trước những thủ đắc mới của PLA. Điều này giúp tăng cường sự mất lòng tin về các ý định và kế hoạch cuối cùng của PLA. Trong quân đội Hoa Kỳ, sự mất lòng tin này đặc biệt mạnh mẽ trong không gian mạng, hải quân, không quân, tình báo vũ khí.

Một số phát triển cụ thể đã đặc biệt làm tăng thêm sự nghi ngờ của quân đội Mỹ về Trung Quốc. Ví dụ, trong sự cố EP-3 năm 2001 và trong những sự cố quân sự khác, phía Trung Quốc đã từ chối tham gia nghiêm túc trên những thực tế có thực của vụ án, thay cho khăng khăng cứng nhắc về một sự trình diển hư cấu của những gì thực sự xảy ra, cần sau đó tại một số điểm, tham dự vào các cuộc thảo luận nghiêm túc để đạt được một giải pháp. Trong những lời của một quan chức Mỹ, "Điều này thực tế gây ra sự mất lòng tin nếu Trung Quốc không bị ảnh hưởng bởi những thực tế của vụ án, sau đó nó là khó để thiết lập một cơ sở cho sự hiểu biết, hợp tác và thỏa hiệp lẫn nhau. "

An ninh không gian mạng

Hoa Kỳ gần đây đã phát triển một lệnh không gian mạng tổng thể trong quân sự ( với các lệnh phụ trong các chi nhánh khác nhau), cùng với các cơ quan an ninh mạng chuyên dụng trong từng bộ phận khác nhau của bộ máy quan liêu của chính phủ. Những cơ quan quốc phòng không gian mạng khác nhau này đã nhanh chóng trở nên cực kỳ nhạy cảm với những hoạt động không gian mạng có nguồn gốc ở Trung Quốc và trực tiếp chống lại những muc tiêu quân sự và dân sự (cả chính phủ và phi chính phủ) của Mỹ. Các hoạt động này của Trung Quốc đã mọc lên như nấm ở quy mô và phạm vi và trong nhiều trường hợp cực kỳ dai dẳng và công phu. Họ đã làm nên một số trường hợp thành công gây sửng sốt trong việc truy cập và sao chép dữ liệu rất nhạy cảm nhắm vào quân sự, ngoại giao, và tầm quan trọng kinh tế.

Trong khi các đơn vị không gian mạng khác nhau thuật lại các đơn vị ủy nhiệm không được Trung Quốc tập trung, do đó, trong thực tế chúng trở thành nguồn báo động liên tục về các hoạt động cơ bản của Trung Quốc trực tiếp chống lại khả năng nhạy cảm của Mỹ. Ngay cả trên những vấn đề thẩm quyền gắn liền với lĩnh vực không gian mạng, rất nhiều các hoạt động này được đưa ra từ các máy chủ ở Trung Quốc và tập trung vào các mục tiêu được đặc biệt quan tâm đối với chính phủ, quân đội, và các tập đoàn Trung quốc, mà nhiều người có kết luận rằng đây là những biện pháp lớn do nhà nước định hướng và cho thấy thái độ và ý định ở Trung Quốc rằng lý do xác đáng mất lòng tin chiến lược là thuộc phía Mỹ .

Cơ quan tình báo

Nhiều người trong cộng đồng tình báo của Mỹ thấy rằng thông tin họ thu thập cho thấy, trong thông tin liên lạc nội bộ cán bộ chủ chốt của Trung Quốc cho rằng có rất nhiều cách tiếp cận tổng bằng không, khi thảo luận về các vấn đề trực tiếp và gián tiếp liên quan đến quan hệ Mỹ-Trung Quốc. Kể từ khi những xu hướng này được đặc quyền, thông tin liên lạc dự định không dành cho tiêu dùng công cộng, giả định cơ bản của họ là trong một số trường hợp thực hiện bị đặc biệt để lộ ra mục tiêu "thực sự" của Trung Quốc.

FBI, đóng một vai trò quan trọng trong cả hai phản gián và an ninh mạng trong nước, đã trở nên rất lo lắng trước các hoạt động cơ bản của Trung Quốc hướng vào mục tiêu trong nước Mỹ. Con số trường hợp hoạt động gián điệp nhằm ăn cắp công nghệ Mỹ trong khu vực doanh nghiệp Mỹ đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây. Trong khi điều này có thể phản ánh một phần hiệu quả hơn nỗ lực trong việc tìm ra trường hợp gián điệp, có một sự đồng thuận rằng mức độ nỗ lực chỉ đạo từ Trung Quốc gia tăng đáng kể. Về mặt an ninh mạng, FBI đang bị tràn ngập với những trường hợp xâm nhập không gian mạng từ những máy chủ ở Trung Quốc nhằm vào các mục tiêu nhạy cảm của Mỹ và sử dụng rất tinh vi và liên tục các phương pháp thâm nhập và khai thác thông tin. Rất thường xuyên, thông tin có mục tiêu được coi là quan tâm duy nhất đối với thẩm quyền Trung Quốc (chứ không phải là Tin tặc, tổ chức tội phạm, hoặc chính phủ các nước khác).

Tóm lại, các cơ quan quan trọng trong chính phủ Mỹ có sự ủy nhiệm và kinh nghiệm cung cấp cho họ với một cơ sở để kết luận rằng Hoa Kỳ không nên tin tưởng rằng Trung Quốc tìm cách hợp tác xây dựng với Mỹ như là đối tượng chiến lược lâu dài của nó. Trong thế giới hậu 9/11, các cơ quan này đang đóng một vai trò phần nào nổi bật hơn trong chính sách của Mỹ, và điều này xây dựng sự mất lòng tin chiến lược thiết yếu hơn vào trong sự pha trộn chính sách ở phía Mỹ.

Quốc hội

Quốc hội Hoa Kỳ không được bao gồm trong "những nhà lãnh đạo hàng đầu của Mỹ " thảo luận về điểm này, nhưng quốc hội đóng một vai trò đáng kể trong các khía cạnh khác nhau của chính sách đối ngoại của Mỹ. Đó là đặc biệt đúng về các vấn đề thương mại. Quốc hội cũng có kiểm soát phân bổ ngân sách chính phủ và như vậy có thể làm cho mối quan tâm của nó được cảm thấy trong Hành Pháp bằng nhiều cách khác nhau.

Có 535 thành viên của Quốc hội Mỹ, và họ đại diện cho một tập hợp rất đa dạng của cử tri. Nhiều người đã hình thành quan điểm của họ về Trung Quốc dựa trên một số kinh nghiệm cá nhân hoặc lợi ích của một số phân đoạn của các cử tri riêng của họ, bao gồm cả những người được hưởng lợi từ quan hệ kinh tế và thương mại với Trung Quốc. Chỉ có một số nhỏ tương đối đã từng nghiên cứu Trung Quốc cẩn thận hoặc có kiến ​​thức về lịch sử chi tiết và nội dung của quan hệ Mỹ-Trung Quốc.

Phần lớn hơn, nhiều thành viên của Quốc hội là rất hoài nghi về ý định của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ. Đối với một số thái độ hoài nghi này xuất phát từ khiếu nại của doanh nhân trong khu vực của họ. Đối với những người khác, nó được dựa trên ý thức hệ giả định hoặc lo ngại về nhân quyền. Một số thành viên chủ chốt đặc biệt ảnh hưởng đến vấn đề châu Á tại Quốc hội hiện nay, hình thành quan điểm của họ rất tiêu cực đối với Trung Quốc từ kinh nghiệm cá nhân của họ trong chiến đấu ở chiến tranh Việt Nam hoặc trong cách xử sự với các quốc gia độc tài khác.

Mất lòng tin chiến lược của Quốc hội đối với Trung Quốc tạo ra áp lực thực sự trên các nhà sáng tạo quyết định trong ngành Hành Pháp. Quốc hội đã, ví dụ, bắt buộc rằng Bộ Quốc phòng đưa ra một báo cáo hàng năm về phát triển quân sự của Trung Quốc. Báo cáo này, bởi bản chất của tập trung bắt buộc của nó, thông thường góp phần vào sự mất lòng tin chiến lược với Trung Quốc. Quốc hội cũng bắt buộc một lệnh cấm về chi tiêu tài chính bởi ngành Hành pháp trên hợp tác Mỹ -Trung Quốc trong không gian và rộng hơn trong khoa học, những điều đó phủ nhận chính phủ Mỹ là công cụ tiềm năng làm giảm sự mất lòng tin chiến lược với Trung Quốc. Và các thành viên Quốc hội đã sử dụng quyền lực của họ để xác nhận các quan chức Hành Pháp hàng đầu, cố gắng bảo đảm rằng các quan chức như vậy là thận trọng thích đáng liên quan đến ý định cuối cùng của Trung Quốc.

Có một sự đa dạng rộng rải trong các quan điểm ở Quốc hội, và các thành viên không đồng ý với nhau trên hầu hết các vấn đề. Nhưng phần lớn, quan điểm của Quốc hội Mỹ và tác động nổ lực bởi các thành viên Quốc hội, thúc đẩy chính quyền Mỹ chú ý nghiêm trọng đến quan điểm, đó là ít tỏ ra tin cậy về những ý định lâu dài của Trung Quốc.

_ Kenneth Lieberthal là thành viên cao cấp trong Chính Sách Đối Ngoại và trong " Nền Kinh Tế Toàn Cầu và Phát Triển" và là Giám đốc Trung tâm John L. Thornton Trung Quốc tại Viện Brookings

_ Wang Jisi là Giám đốc của Trung tâm Quốc tế và Nghiên Cứu Chiến Lược và là Chủ nhiệm khoa của Trường Nghiên cứu Quốc tế tại Đại học Bắc Kinh.


BHM Lược dịch. © 2012 BOHEMIENVN

Trang Chủ

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.