Ưu tiên Chiến lược và Nhiệm vụ mới của QĐGPND Trung quốc.

Yêu sách chủ quyền rộng lớn của Trung Quốc với khả năng bao gồm hết cả biển Đông vẫn là nguồn gốc của ganh đua khu vực.

Trích từ Báo cáo thường niên trước Quốc hội của Bộ QP Hoa Kỳ .
Bản tiếng Anh

BHM Lược dịch.

Sự phát triển quân sự và an ninh liên quan đến nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.2011

ƯU TIÊN CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC.

Kể từ khi Trung Quốc đưa ra cải cách và mở cửa vào năm 1978, các yếu tố thiết yếu trong Chiến lược của Trung Quốc vẫn tương đối không thay đổi. Thay vì thách thức trật tự toàn cầu hiện tại, Trung Quốc đã thông qua một cách tiếp cận thực tế trong quan hệ quốc tế và phát triển kinh tế, qua đó tìm cách tăng cường nền kinh tế, hiện đại hóa quân sự, và củng cố quyền lực của ĐCSTQ. Cách tiếp cận này phản ánh Bắc Kinh tự nhận rằng vị thế sức mạnh to lớn trong dài hạn sẽ đạt được tốt nhất bằng cách tránh đối đầu trong ngắn hạn. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường xuyên nhấn mạnh mục tiêu hoàn thành các điểm chuẩn then chốt về mặt kinh tế và quân sự vào năm 2020 và cuối cùng trở thành một sức mạnh kinh tế và quân sự thuộc loại tốt nhất thế giới vào năm 2050.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc xem ra thực hiện những quyết định dựa trên một loạt các vấn đề tương quan với nhau và đôi khi các ưu tiên chiến lược lại cạnh tranh nhau, trong đó bao gồm việc kéo dài vô tận sự thống trị của ĐCSTQ ; duy trì tăng trưởng kinh tế và phát triển, duy trì ổn định chính trị trong nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ địa vị của Trung Quốc như là một quyền lực to lớn. Mặc dù những thách thức an ninh đang mở ra và các khả năng đang phát triển đã nhắc nhở những điều chỉnh trong ba thập kỷ qua, tầm nhìn chiến lược bao quát vẫn hầu như không thay đổi ở mức độ lớn.

Trong suốt năm 2010, Trung Quốc tiếp tục trên con đường hướng tới những mục tiêu chiến lược dài hạn của nó. Bất các chấp lo ngại trong nước về lạm phát, thu nhập bất bình đẳng gia tăng, và một khả năng về bong bóng bất động sản, cho đến nay nền kinh tế của Trung Quốc dường như đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu với thành công tương đối. Trong năm 2010, nền kinh tế Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Mặc dù các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn lo ngại về một số thách thức kinh tế, nhiều nhà phân tích cho rằng hiệu năng kinh tế của Trung Quốc trong những năm gần đây đã ban tặng cho Bắc Kinh sự tự tin lớn hơn trong mô hình kinh tế và sức mạnh tương đối của nó.

Về mặt quân sự, chương trình hiện đại hóa được duy trì liên tục của Trung Quốc đang gây hao tốn tiền bạc có thể nhìn thấy được. Trong năm 2010, Trung Quốc có những bước tiến dài hướng đến một khả năng ngăn chặn, hoạt động tên lửa đạn đạo chống tàu, tiếp tục làm việc về chương trình tàu sân bay, và hoàn tất mẫu thử nghiệm máy bay tàng hình đầu tiên. Mặc dù tiếp tục có những khoảng trống trong một số lãnh vực quan trọng, số lượng lớn các phần cứng lỗi thời, và thiếu kinh nghiệm hoạt động, quân đội Trung Quốc đang dần dần thu hẹp khoảng cách công nghệ với các lực lượng vũ trang hiện đại.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nói về ưu tiên các chiến lược của họ trong phạm vi những gì họ gọi là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Trong tháng 12 năm 2010 giải trình về chính sách đối ngoại của Trung Quốc, Ủy viên hội đồng Nhà nước, Đới Bỉnh Quốc liệt kê các lợi ích cốt lõi của Trung Quốc như:
* Hệ thống nhà nước, hệ thống chính trị, và ổn định chính trị của Trung Quốc; đó là sự lãnh đạo của ĐCSTQ, hệ thống xã hội chủ nghĩa, và con đường chủ nghĩa xã hội với những đặc điểm của Trung Quốc.
* Chủ quyền và an ninh, tính toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất quốc gia của Trung Quốc.
* Bảo đảm cơ bản cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế và xã hội của Trung Quốc.
Lãnh đạo Trung Quốc cũng tập trung vào nhiều vấn đề tiềm năng có thể gây phức tạp hoặc làm chệch quỹ đạo tăng trưởng của Trung Quốc hoặc chiến lược "phát triển một cách hòa bình" của nó. Chúng bao gồm những điều sau đây:

_ Kinh tế: Tiếp tục phát triển kinh tế vẫn là nền tảng của ổn định xã hội và bảo trợ cho sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Một loạt các yếu tố kinh tế có thể phá vỡ quỹ đạo, bao gồm sự co lại nhanh chóng của một nền kinh tế có khả năng quá nóng. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã thu nhỏ mục tiêu GDP cho giai đoạn 2011-2015 để giảm thiểu nguy cơ đang trở nên quá nóng và quản lý các hậu quả có thể xảy ra. Các rủi ro kinh tế tiềm năng khác đối với Trung Quốc bao gồm chuyển dịch mô hình thương mại toàn cầu, những hạn chế nguồn tài nguyên, hoặc các nỗ lực thách thức quyền tiếp cận tài nguyên.

_ Chủ nghĩa dân tộc: Các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản và các quan chức quân sự tiếp tục khai thác chủ nghĩa dân tộc để củng cố tính hợp pháp của Đảng và làm chệch hướng những lời chỉ trích trong nước. Tuy nhiên, phương pháp này vốn chấp chứa các rủi ro, các lực lượng này có thể dễ dàng quay lại chống nhà nước hay tạo phức tạp cho quá trình khai triển chính sách của Trung Quốc. Những thích thú mang tính dân tộc chủ nghĩa đối với một tư thế Trung Quốc cơ bắp nhiều hơn, đặc biệt trong thời gian khủng hoảng, có hiệu quả gây hạn chế vừa phải, giới tinh hoa thực dụng trong việc thàmh lập chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Ngoài ra, giới thượng lưu Trung Quốc có thể chỉa vào chủ nghĩa dân tộc như là một biện minh cho sự thiếu linh hoạt của chính họ trong các cuộc nói chuyện với người đối thoại nước ngoài
.
_ Kỳ vọng phát triển: Phát triển của Trung Quốc đã diển giải những kỳ vọng lớn hơn cả trong và ngoài nước đối với sự tham gia trên trường quốc tế. Các quốc gia khác đã kêu gọi Bắc Kinh gánh vác một vai trò lớn hơn trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, đến một điểm mà tại đó một số nhà lãnh đạo Trung Quốc lo lắng về việc nhận lấy trách nhiệm nhiều hơn so với việc họ có thể xử lý chúng. Đồng thời, nhận thức trong nước về tình trạng phát triển của Trung Quốc đang gây ra những nhu cầu phổ biến trong việc theo đuổi lợi ích quốc tế của Trung Quốc một cách quyết đoán hơn .

_ Cân bằng khu vực: Kinh tế đang phát triển, ngoại giao và sự hiện diện quân sự và ảnh hưởng của Trung Quốc ở châu Á và trên toàn cầu đang làm gia tăng các mối quan tâm trong rất nhiều quốc gia về mục tiêu cuối cùng của Trung Quốc -- và các mối đe dọa tới mức độ này có thể xuất hiện với họ. Những mối quan tâm khu vực có thể gây xúc tác cho những nỗ lực cân bằng khu vực hoặc toàn cầu.

_ Các áp lực chính trị trong nước: Sự sống còn của chế độ hình thành triển vọng chiến lược của các nhà lãnh đạo Trung Quốc và định hướng quyết định việc thực hiện. Đảng Cộng sản vẫn tiếp tục phải đối mặt với nhu cầu dài hạn của dân chúng trước việc cải thiện những đáp ứng, minh bạch và trách nhiệm của chính phủ. Nếu chưa được đáp ứng, các yếu tố này sẽ làm suy yếu tính hợp pháp của ĐCSTQ.
.
_ Các áp lực nhân khẩu học: Nhân khẩu học nhấn mạnh sẽ gia tăng trong tương lai, tạo ra một hạn chế cơ cấu đối với khả năng của Trung Quốc để duy trì tăng trưởng kinh tế tỷ lệ cao cũng như một thách thức xã hội dành cho ĐCSTQ.

_ Môi trường: Phát triển kinh tế của Trung Quốc đã phải trả giá cao về vấn đề môi trường .Các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngày càng lo ngại rằng môi trường suy thoái có thể làm suy yếu tính hợp pháp của chế độ bằng cách gia tăng đe dọa kinh tế, y tế công cộng, ổn định xã hội, và hình ảnh quốc tế của Trung Quốc.

_ Tình trạng đối kháng ngang qua Eo biển : Mặc dù có một sút giảm căng thẳng theo sau sự chọn lựa Tổng thống Đài Loan Ma Ying-jeou vào tháng Ba năm 2008, khả năng một cuộc xung đột quân đội với Đài Loan, bao gồm cả việccan thiệp quân sự của Mỹ, vẫn còn là một áp lực, tập trung dài hạn dối với PLA ( Quân đội giải phóng nhân dân TQ). Thiếu vắng sự giải quyết một cách hòa bình qua eo biển hoặc một hiệp ước không xâm phạm dài hạn , nhiệm vụ của Đài Loan sẽ có khả năng tiếp tục có ảnh hưởng đến việc hiện đại hóa quân đội và lập kế hoạch hoạt động của PLA.

Những Tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc.

[caption id="attachment_3491" align="aligncenter" width="480"] Vùng lãnh thổ tranh chấp của Trung Quốc.
Bản đồ này giới thiệu gần đúng Trung Quốc và những khu vực tuyên bố khác. Trung Quốc vẫn mơ hồ về sự biện minh và mức độ pháp lý đối với các khu vực tuyên bố. Ba tranh chấp lãnh thổ lớn đang diễn ra của Trung Quốc dựa trên tuyên bố dọc theo biên giới chia xẻ với Ấn Độ và Bhutan, Biển Đông, và với Nhật Bản trong vùng biển Đông Trung Quốc.[/caption]
Trung Quốc phải đối mặt với tranh chấp lãnh thổ rộng lớn dọc theo cương thổ và ngoại vi hàng hải. Bên cạnh tình trạng của Đài Loan, các tranh chấp này đóng một vai trò trung tâm trong kế hoạch của PLA. Mặc dù nói chung Trung Quốc thông qua một tư thế ít đối đầu hơn đối với các tranh chấp khu vực kể từ cuối những năm 1990 (Trung Quốc đã giải quyết 11 vụ tranh chấp đất với sáu nước láng giềng kể từ năm 1998), một số nhân tố khu vực lo ngại rằng quân sự đang phát triển và trọng lượng kinh tế của Trung Quốc đang bắt đầu tạo nên một tư thế quyết đoán hơn, đặc biệt là trong lĩnh vực hàng hải.

Ngoài ra một cuộc tranh chấp biên giới lâu đời và có khả năng gây ra sự bất đồng với Ấn Độ, Trung Quốc có tranh chấp ranh giới hàng hải với Nhật Bản trên biển Hoa Đông và khắp Biển Đông với Việt Nam, Malaysia, Philippines, Brunei, và Đài Loan. Những điều này đã thỉnh thoảng làm dấy lên xung đột vũ trang, bao gồm một cuộc xung đột biên giới với Ấn Độ năm 1962 và một cuộc xâm lược lãnh thổ Việt Nam năm 1979. Ở Biển Đông, Trung Quốc đã gây chiến với quân đội Việt Nam ở Quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và gần dảy đá ngầm Fiery Cross trong năm 1988.( nguyên văn = In the South China Sea, China fought Vietnamese forces in the Paracel Islands in 1974 and near Fiery Cross Reef in 1988.) . Năm 1995, Trung Quốc chiếm đóng dãy đá ngầm Mischief, cũng tại quần đảo Trường Sa, giữa sự phản đối của Philippines. Năm 2002, Bắc Kinh và ASEAN đã cùng ký kết một Tuyên bố về ứng xử ở Biển Đông. Trong khi không ràng buộc, bảng tuyên bố sau đó cũng có được một khoảng thời gian tương đối ổn định.

Yêu sách chủ quyền rộng lớn của Trung Quốc với khả năng gồm hết cả biển Đông vẫn là nguồn gốc của ganh đua khu vực. Bắt đầu từ những năm 1930 và 1940, Trung Hoa Dân Quốc bắt đầu xuất bản bản đồ khu vực với một đường chín đoạn chung quanh chu vi của biển Đông. Sau khi nắm quyền năm 1949, ĐCSTQ vẫn duy trì điều này. Cả Trung Quốc và Đài Loan tiếp tục tuyên bố chủ quyền Biển Đông của họ dựa trên sự phác họa rộng lớn đó. Trung Quốc ngày càng liên quan đến Biển Đông như là một hành lang thương mại và an ninh quan trọng đối với Đông và Đông Nam Á.

Trong những năm gần đây, một số nước láng giềng Trung Quốc đã nghi ngờ về cam kết lâu dài của Bắc Kinh đối với cách giải quyết những tranh chấp còn lại một cách hòa bình và hợp tác. Tàu của Hải quân PLA đã rất nhiều lần đi vòng quanh biển Đông từ năm 2005, và tàu thực thi dân sự, đôi khi được hỗ trợ bởi Hải quân Trung Quốc, thỉnh thoảng quấy rối tàu thuyền nước ngoài. Nhấn mạnh tính biến động của những tranh chấp khác nhau này, một thuyền đánh cá mang cờ Trung Quốc đã va chạm với tàu Bảo vệ Bờ biển Nhật Bản gần quần đảo tranh chấp Senkaku ở biển Đông Trung Quốc, làm nổ ra một bế tắc có tính chính trị căng thẳng cao độ giữa Tokyo và Bắc Kinh trong tháng 9 năm 2010.

NHỮNG NHIỆM VỤ LỊCH SỬ MỚI.

Năm 2004, Hồ Cẩm Đào nói rõ một thông báo nhiệm vụ cho các lực lượng vũ trang có tiêu đề "Những nhiệm vụ lịch sử của các lực lượng vũ trang trong giai đoạn mới của thế kỷ mới" (xin shiji xin jieduan wojun lishi shiming). Những nhiệm vụ lịch sử mới này tập trung chủ yếu vào điều chỉnh trong đánh giá của lãnh đạo Trung Quốc về môi trường an ninh quốc tế và định nghĩa mở rộng về an ninh quốc gia. Những nhiệm vụ này được hệ thống hóa hơn nữa trong một sửa đổi đối với kết cấu của ĐCSTQ năm 2007. Các nhiệm vụ, như được xác định hiện nay, bao gồm:

_ Cung cấp một bảo đảm quan trọng cho sức mạnh của đảng để củng cố vị thế cai trị của nó.

_ Cung cấp một bảo đảm an ninh mạnh mẽ cho việc bảo vệ các giai đoạn chiến lược đối với cơ hội phát triển quốc gia.

_ Cung cấp một hỗ trợ chiến lược mạnh mẽ đối với việc bảo vệ lợi ích quốc gia.

_ Đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ hòa bình thế giới và thúc đẩy phát triển chung.


Theo các bài viết chính thức, các yếu tố định hướng đằng sau những nhiệm vụ bản lề này là: những thay đổi trong tình hình an ninh Trung Quốc, các thách thức và ưu tiên liên quan đến phát triển quốc gia Trung Quốc, và mong muốn tổ chức lại các nhiệm vụ của quân đội Trung Quốc với những mục tiêu của ĐCSTQ. Thành viên Bộ Chính trị và Phó Chủ tịch CMC Từ Tài Hậu trong năm 2005 khẳng định "các nhiệm vụ lịch sử là hiện thân các yêu cầu mới buộc quân đội phải chấp nhận nhiệm vụ lịch sử của Đảng, thích nghi với những thay đổi mới trong chiến lược phát triển quốc gia của chúng ta, và phù hợp với các xu hướng mới trong phát triển quân sự toàn cầu".

Trong một quan điểm được nhắc lại trong Bạch thư Quốc phòng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới nhất, phát triển kinh tế vẫn còn là một nhiệm vụ trung tâm và quân đội Trung Quốc dự kiến ​​sẽ hỗ trợ các lợi ích kinh tế và an ninh của Trung Quốc . Điều này đặt ra những thách thức mới cho quân đội mà, cho đến gần đây hầu như đã không có kinh nghiệm hoạt động bên ngoài khu vực của mình.

Hướng dẫn chiến lược của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đối với quân đội phản ánh quan điểm này, kêu gọi quân đội Trung Quốc đóng một vai trò rộng lớn hơn trong việc bảo đảm các lợi ích chiến lược của Trung Quốc, bao gồm cả những vấn đề ở bên ngoài lãnh thổ biên giới của nó. Tháng ba năm 2009, một bài phát biểu với các đại biểu quân đội của Trung Quốc trước Quốc dân Đại hội, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào thúc giục quân đội tập trung vào "xây dựng khả năng cốt lõi của quân đội", và "khả năng tiến hành các hoạt động quân sự khác so với chiến tranh " (fei zhanzheng junshi Xingdong). Hu xác nhận, với điều kiện tiên quyết để hoàn thành thỏa đáng tất cả các nhiệm vụ -- chuẩn bị cho đấu tranh quân sự như là sự dẫn đầu -- các lực lượng vũ trang phải tham gia tích cực trong việc hỗ trợ xây dựng kinh tế quốc gia và phúc lợi công cộng.

Bạch thư Quốc phòng 2010 của Trung Quốc nhấn mạnh đến các vai trò và nhiệm vụ đang phát triển của PLA , lưu ý rằng:

Họ tổ chức chuẩn bị cho các hoạt động quân sự khác hơn so với chiến tranh (MOOTW) một cách khoa học, tiến hành những chương trình chiến lược dự định trước chống lại không các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, củng cố xây dựng lực lượng chuyên ngành ứng phó khẩn cấp, và nâng cao khả năng chống khủng bố và duy trì sự ổn định, giải cứu các trường hợp khẩn cấp, và bảo vệ an ninh.

Phương tiện truyền thông có thẩm quyền Trung Quốc mô tả những điều này "các hoạt động quân sự khác với chiến tranh" là bao gồm: chống khủng bố, duy trì sự ổn định xã hội, cứu trợ thiên tai, cứu nạn, và các hoạt động gìn giữ hòa bình quốc tế. Các nhà lãnh đạo của Trung Quốc đã đề cập các hoạt động "quân sự phi chiến tranh" khác bao gồm cả bảo vệ tuyến đường biển, chiến tranh không gian mạng, an ninh các tài sản dựa trên không gian, tiến hành ngoại giao quân sự, và chuẩn bị cho điều kiện và các sự kiện bất ngờ .

*Hải quân Trung Quốc triển khai liên tục để thực hiện nhiệm vụ hộ tống chống cướp biển trong Vịnh Aden là một ví dụ về việc theo đuổi nhiệm vụ lịch sử mới của Trung Quốc.
* Một ví dụ khác là chuyến đi năm 2010 của chiếc tàu bệnh viện lớn đầu tiên của Trung Quốc, thực hiện điểm dừng ở châu Á và châu Phi. Con tàu có thể hỗ trợ hoạt động chiến đấu, nhưng báo chí chính thức Trung Quốc báo cáo nhấn mạnh khía cạnh nhiệm vụ nhân đạo của con tàu.
* Gần đây nhất, quân đội Trung Quốc đã xử dụng các con tàu để hỗ trợ trong việc di tản các công dân Trung Quốc từ Libya. Điều này đánh dấu hoạt động di tản không chiến đấu đầu tiên của PLA (NEO).

TRANH LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC TƯƠNG LAI

Chiến lược hiện nay của Trung Quốc vẫn là một trong những việc quản lý môi trường bên ngoài để bảo đảm điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc. Cách tiếp cận này phục vụ mục tiêu tối quan trọng trong việc giữ gìn sự tồn tại và lãnh đạo của ĐCSTQ. Mặc dù chiến lược này xuất hiện để có được sự chấp nhận rộng rãi giữa cơ sở chính sách đối ngoại và chính sách an ninh của Bắc Kinh, quân đội và các bài viết của các học viện tiết lộ những ý kiến khác nhau ​​liên quan đến phương tiện để đạt được các mục tiêu quốc gia rộng lớn của Trung Quốc.

Mặc dù tầm nhìn ngày càng khớp nối qua đó thời điểm đã đến cho Trung Quốc thảo luận thẳng thắn hơn và theo đuổi các lợi ích quốc gia, những tiếng nói trong lãnh đạo Trung Quốc hiện nay đã ũng hộ câu châm ngôn của nhà cựu lãnh đạo tối cao Đặng Tiểu Bình từ đầu những năm 1990 rằng Trung Quốc nên "quan sát cẩn thận ; giử vững vị thế ; đối phó bình tỉnh ; giỏi che thực lực ; ẩn mình chờ thời và không tranh đứng đầu". Hướng dẫn này phản ánh sự tin tưởng của Đặng Tiểu Bình rằng các lợi ích Trung Quốc được phục vụ tốt nhất bằng cách tập trung vào phát triển và ổn định nội bộ trong khi chỉ đạo rõ ràng về đối đầu trực tiếp hay đối kháng với các quyền lực to lớn. Trong năm 2010, Ủy viên hội đồng Nhà nước Đới Bỉnh Quốc trích dẫn cụ thể hướng dẫn của Đặng Tiểu Bình, nhấn mạnh Trung Quốc tôn trọng một con đường "phát triển hòa bình" và sẽ không tìm kiếm mở rộng hoặc bá quyền. Ông khẳng định rằng lối nói "giỏi che và chờ thời" không phải là xử dụng "màn hỏa mù" trong khi Trung Quốc xây dựng sức mạnh của nó, mà chỉ là lời khuyên kiên nhẩn và không gây chú ý.

Một số học giả Trung Quốc đặt câu hỏi liệu cách tiếp cận chính sách của Đặng Tiểu Bình sẽ tiếp tục giành được sự ũng hộ khi lợi ích và quyền lực của Trung Quốc mở rộng. Lợi ích an ninh nhận thấy được của Trung Quốc đã thay đổi đáng kể kể từ thời kỳ Đặng Tiểu Bình bao gồm một sự phụ thuộc nặng nề về thương mại hàng hải. Trung Quốc đang cải thiện khả năng của hải quân cho phép thực hiện những vai trò và nhiệm vụ mà qua đó quân đội Trung Quốc sẽ không thể theo đuổi kịp cách đây chỉ mới một thập kỷ. Những người ủng hộ Trung Quốc có một vai trò tích cực và quyết đoán hơn trên sân khấu thế giới đã gợi ý rằng Trung Quốc sẽ được phục vụ tốt hơn bởi một lập trường vững chắc khi đối mặt với Hoa Kỳ hoặc những áp lực khu vực khác.

Cũng đã có một cuộc tranh luận tích cực giữa các nhà lý luận quân sự và dân sự ở Trung Quốc liên quan đến khả năng trong tương lai quân đội Trung Quốc nên phát triển để thúc đẩy lợi ích của Trung Quốc vượt ra ngoài các yêu cầu truyền thống . Một số sĩ quan cao cấp và các nhà lý luận dân sự chủ trương một mở rộng các khả năng triển khai sức mạnh của PLA để tạo điều kiện thuận lợi cho nhiệm vụ vượt ra ngoài các tranh chấp với Đài Loan và khu vực. Một cách công khai, các quan chức Trung Quốc dám chắc rằng việc gia tăng tầm khả năng hàng hải của Trung Quốc được dự định để xây dựng năng lực gìn giữ hòa bình quốc tế, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thiên tai, và bảo vệ tuyến đường biển.


Trung Quốc tranh luận Chiến lược An ninh Quốc gia trong năm 2010

Trong suốt năm 2010, một dải bình luận trên các phương tiện truyền thông phương Tây và Trung Quốc và giới học thuật, cho rằng Trung Quốc đã phát triển tương đối mạnh mẽ hơn đối với Hoa Kỳ, đặc biệt là kết quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Một số nhà bình luận khẳng định rằng một Trung Quốc mạnh hơn nên chủ động theo đuổi lợi ích quốc gia của nó. Trong khi cuộc tranh luận này ngày càng công khai cho biết ĐCSTQ cho phép thảo luận các ưu tiên chiến lược cạnh tranh, có rất ít dấu hiệu cho thấy rằng lãnh đạo cấp cao của nó đang từ bỏ di sản chính sách đối ngoại của Đặng Tiểu Bình trong tương lai gần.

Sự căng thẳng giữa quản lý hình ảnh của Trung Quốc và thúc đẩy lợi ích của Trung Quốc đã lộ ra nhiều lần trong năm 2010. Điều này bao gồm các cuộc thảo luận về Bắc Kinh nên phản ứng như thế nào đối với những căng thẳng ở biển Đông và các cuộc tập trận chung Mỹ-Hàn Quốc trong vùng biển Hoàng Hải. Phần lớn các bài bình luận ca ngợi những nhận thức rằng Bắc Kinh đã đưa ra một lập trường mạnh mẽ hơn trên các vấn đề này phù hợp với trọng lượng quốc tế đang phát triển của nó. Một số nhà bình luận lập luận rằng Trung Quốc cần nhận lấy một chỗ đứng thậm chí mạnh mẽ hơn hoặc khẳng định rằng, trái lại, Bắc Kinh không có đủ sức mạnh để duy trì một vị thế quyết đoán hơn, mặc dù Hoa Kỳ suy giảm tương đối.

Một cuộc tranh luận ngày càng công khai ở Trung Quốc về việc thực hiện quyền lực quốc gia phản ánh thực tế rằng cả hai hành vi quyết đoán và xuề xòa đều đến với một tập hợp các chi phí cho Bắc Kinh. Nhiều người ở Trung Quốc cảm thấy rằng việc mở rộng đều đặn sức mạnh quốc gia toàn diện làm cho Trung Quốc được tôn trọng và nể nang. Tuy nhiên, trong "cửa sổ chiến lược cơ hội" hiện nay, lãnh đạo Trung Quốc vẫn còn thận trọng với việc làm xói mòn các mục tiêu dài hạn của họ.

Mùa thu năm 2010, bình luận về quan hệ an ninh với Hoa Kỳ đã dịu nhẹ đi, có thể là do những nỗ lực dàn xếp đường lối cho chuyến thăm dự kiến ​​của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đến Hoa Kỳ vào đầu năm 2011.. Thông cáo chính thức của Nghị quyết 5 của Hội nghị Ủy ban Trung ương Đảng khóa 17 tổ chức từ 15 đến ngày 18 tháng 10, 2010: nhấn mạnh rằng "đất nước của chúng ta vẫn còn ở trong thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng". Chúng tôi đánh giá đây là một tái khẳng định chiến lược của Đặng Tiểu Bình với việc cẩn thận bảo tồn một môi trường ổn định cho sự phát triển của Trung Quốc khi đối diện với lời kêu gọi Bắc Kinh có một lập trường quyết đoán hơn.

Các khía cạnh quân sự và an ninh của Chiến lược năng lượng khu vực của Bắc Kinh

[caption id="attachment_3492" align="aligncenter" width="534"] Các tuyến đường quá cảnh nhập khẩu dầu của Trung Quốc / hành lang hẹp và sâu trên biển hết sức quan trọng và đề xuất / xây dựng các tuyến đường bỏ qua SLOC.[/caption]
Sự tham gia, đầu tư, và xây dựng ở nước ngoài của Trung Quốc liên quan đến năng lượng tiếp tục phát triển. Bắc Kinh đã xây dựng hoặc đầu tư vào các dự án năng lượng tại hơn 50 quốc gia, bao trùm gần như mọi châu lục. Đầu tư đầy tham vọng này trong các tài sản năng lượng đượcđịnh hướng chủ yếu bởi hai yếu tố. Đầu tiên, Bắc Kinh đang ngày càng phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu để duy trì nền kinh tế của nó. Là một nước xuất khẩu dầu ròng cho đến năm 1993, Trung Quốc vẫn thiếu tin tưởng vào thị trường năng lượng quốc tế. Thứ hai, các dự án năng lượng hiện nay là một lựa chọn khả thi đối với việc đầu tư nắm giữ ngoại tệ rộng lớn của Trung Quốc.

Ngoài ra để bảo đảm nguồn năng lượng đáng tin cậy, Bắc Kinh hy vọng sẽ đa dạng hóa cả hai lựa chọn : nhà sản xuất và giao thông vận tải . Mặc dù năng lượng độc lập không còn là thực tế đối với Trung Quốc, trước tăng trưởng dân số và tăng mức tiêu thụ năng lượng tính theo đầu người, Bắc Kinh vẫn tìm cách duy trì một chuỗi cung ứng ít nhạy cảm với sự gián đoạn bên ngoài.

Năm 2009, Trung Quốc nhập khẩu khoảng 56% lượng dầu của nó và dự án ước tính dè dặt rằng Trung Quốc sẽ nhập khẩu gần hai phần ba lượng dầu vào năm 2015 và ba phần tư vào năm 2030. Bắc Kinh có vẻ chủ yếu với Vùng Vịnh Ba Tư, Trung Á, và châu Phi để đáp ứng nhu cầu về dầu ngày càng tăng của nó. Nhập khẩu dầu góp phần khoảng 10% tổng tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc.

Một mục tiêu thứ hai của chiến lược năng lượng nước ngoài của Bắc Kinh là giảm bớt sự phụ thuộc quá lớn của Trung Quốc vào Thông tin liên lạc tuyến biển (SLOCs), đặc biệt là ở Biển Đông và eo biển Malacca. Trong năm 2010, trên 80% lượng nhập khẩu dầu của Trung Quốc quá cảnh Biển Đông và Eo biển Malacca. Một đường ống dẫn dầu thô từ Kazakhstan đến Trung Quốc minh họa những nỗ lực gia tăng nguồn cung cấp bằng đường bộ. Năm 2011, một đường ống 300.000 b / d dẫn từ Siberia tới Đại Khánh đã bắt đầu cung cấp dầu thô cho Trung Quốc. Trung Quốc cũng bắt đầu xây dựng một đường ống được thiết kế để vận chuyển dầu thô và khí đốt tự nhiên từ Kyuakpya, Miến Điện, đến Côn Minh, Trung Quốc, bỏ qua eo biển Malacca.


Với nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của Trung Quốc, các đường ống mới chỉ sẽ làm giảm bớt không đáng kể sự phụ thuộc hàng hải của Trung Quốc vào eo biển Malacca hoặc eo biển Hormuz. Khối lượng nhập khẩu dầu và khí tự nhiên hóa lỏng cho Trung Quốc từ Trung Đông sẽ làm cho SLOCs chiến lược ngày càng quan trọng đối với Bắc Kinh.

Trong năm 2009, một đường ống dẫn sẽ cung cấp lên đến 40 tỷ mét khối (BCM) khí đốt tự nhiên mỗi năm từ Turkmenistan sang Trung Quốc qua Kazakhstan và Uzbekistan bắt đầu hoạt động. Một đường ống dẫn khí tự nhiên khác được thiết kế để cung cấp 14 BCM mỗi năm từ Miến Điện đang ở giai đoạn xây dựng ban đầu và dự kiến ​​hoàn thành vào năm 2013. Ngoài ra Bắc Kinh đàm phán với Moscow hai đường ống có thể cung cấp cho Trung Quốc lên đến 69 BCM khí.


BHM Lược dịch. © 2012 BOHEMIENVN

Trang Chủ

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.