Liên minh Mỹ-Nhật Bản neo chặt sự ổn định ở Châu Á.(TT)


Hòa bình và ổn định ở Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ) là một quan tâm quan trọng của đồng minh với nét nổi bật đặc biệt sâu sắc đối với Nhật Bản. Với 88% nguồn cung cấp của Nhật Bản, bao gồm nguồn tài nguyên năng lượng quan trọng, quá cảnh qua Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa), đó là lợi ích của Nhật Bản để tăng cường giám sát trong sự hợp tác với Hoa Kỳ để bảo đảm sự ổn định và đuợc tiếp tục tự do vận chuyển hàng hải.

Richard L. Armitage, Joseph S. Nye Jr. 15, Tháng Tám, 2012.
Theo CSIS

Tr
ần H Sa  Lược dịch.

Kinh tế và Thương mại

Tháng 11 năm 2011, Thủ tướng Noda đã công bố sự tham gia của Nhật Bản trong việc tham khảo trước đối với việc gia nhập vào quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Một khi được thực hiện đầy đủ, TPP sẽ chiếm 40% thương mại thế giới và bao gồm ít nhất 11 quốc gia trên Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Hơn nữa, không giống như các FTA khác trong khu vực, TPP nổi bật như là thương mại tự do toàn diện, trình độ cao, và thỏa thuận có tính ràng buộc pháp lý. Kể từ khi công bố năm ngoái, Nhật Bản đã chậm chạp trong tiến trình gia nhập TPP. Bề rộng của các vấn đề và số lượng của các quốc gia tham gia vào các cuộc đàm phán đòi hỏi nhiều thời gian hơn và sự chú ý đến từng chi tiết, tuy nhiên, lợi ích an ninh kinh tế của Nhật Bản kết luận sự trì hoãn bước vào các cuộc đàm phán. Hơn nữa, thật là phi lý rằng Nhật Bản không có một FTA nào với hầu hết đồng minh quan trọng của nó, và chúng tôi mạnh mẽ khuyến khích Nhật Bản đi vào các cuộc đàm phán. Về phần mình, Hoa Kỳ nên làm sáng tỏ hơn và minh bạch hơn về quá trình đàm phán và những thỏa thuận dự thảo.


Hoạt động mạnh mẽ và bảo đảm các mối quan hệ kinh tế Mỹ-Nhật.

Ngoài các cuộc thảo luận TPP, chúng tôi đề xuất một thỏa thuận thương mại tự do đa phương, rỏ nét, sáng tạo. Nhật Bản có một FTA với Mexico và đang thăm dò một FTA với Canada -- hai đối tác thương mại quan trọng nhất của Hoa Kỳ và là những nước tham gia trong các FTA lớn nhất thế giới, Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Một Hiệp định Kinh tế toàn diện, Năng lượng, và An ninh (CEESA) kết hợp Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada, và Mexico sẽ mở rộng đáng kể và làm sâu sắc hơn kinh tế, an ninh, và mối quan hệ năng lượng chiến lược Mỹ-Nhật. Nhật Bản có những nhu cầu an ninh năng lượng quan trọng và trải dài trên vốn đầu tư. Nhật Bản cần thúc đẩy tài chính trở lại trên đầu tư nước ngoài ra bên ngoài để bù đắp cho những thách thức kinh tế nội bộ và vấn đề nhân khẩu học của họ. Ngược lại, Hoa Kỳ -- và Bắc Mỹ, hiển nhiên -- tràn ngập với những cơ hội phát triển khí đốt tự nhiên nhưng thiếu vốn cho đầu tư cơ sở hạ tầng.

CEESA có ba yếu tố cốt lõi :

1. Nhật Bản đàm phán FTA với Canada và Hoa Kỳ -- cùng với FTA hiện có với Mexico -- hướng tới việc tạo ra một quan hệ đối tác với NAFTA. Khi ký kết FTA với mỗi thành viên của NAFTA , Nhật Bản sẽ được phép tự do tiếp cận với năng lượng của Bắc Mỹ và sẽ có vị thế tốt để tận dụng lợi thế của cơ sở hạ tầng Bắc Mỹ và những cơ hội đầu tư năng lượng chiến lược.
.2. Hoa Kỳ cam kết bảo vệ dòng chảy của khí tự nhiên hóa lỏng và các hình thức khác của "năng lượng chiến lược" trong việc xuất khẩu sang Nhật Bản như là một phần của liên minh an ninh Mỹ-Nhật.
3. Nhật Bản cam kết đầu tư 100 tỉ $ đến 200 tỷ USD ở Bắc Mỹ để thúc đẩy sự phát triển của những tùy chọn năng lượng , bao gồm cả khí tự nhiên, than đá, dầu, gió, năng lượng mặt trời, và hạt nhân trong thập kỷ tới.

Chúng tôi tin rằng CEESA sẽ phù hợp với sự tiến hóa trong chính sách thương mại hiện nay, không phải là một khởi hành từ nó. Nhật Bản đã có một FTA với Mexico và đã công bố ý định của mình để đàm phán FTA với Canada. Bước tiếp theo là làm việc hướng tới các cuộc đàm phán với Hoa Kỳ -- đồng minh quan trọng nhất và là đối tác thương mại và đầu tư lớn nhất của Nhật Bản.

Một FTA với Canada, Mexico, và Hoa Kỳ sẽ bảo vệ nhiều hơn nền kinh tế, năng lượng, và an ninh tài chính của Nhật Bản so với bất kỳ phương cách nào khác mà chúng ta có thể nghĩ đến. Không chỉ ba FTA sẽ bảo vệ nguồn cung cấp năng lượng cho Nhật Bản, chúng cũng sẽ cung cấp cho Nhật Bản tiếp cận thương mại tự do với các sản phẩm nông nghiệp của Mỹ, Canada, Mexico -- bảo đảm một nguồn cung cấp lương thực ổn định. Dân số nông dân Nhật Bản đang suy giảm nhanh chóng, dân số
của quốc gia đang lão hóa, và tuổi trung bình của nông dân đã tăng trên 66 tuổi. Với cái nhìn ra bên ngoài, Nhật Bản không thể có đủ khả năng trì hoãn điều chỉnh chính sách thương mại nông nghiệp của mình. Các rào cản nông nghiệp còn lại mà thay thế theo cách của một FTA là dễ dàng có thể vượt qua được nếu tất cả các bên tham gia suy nghĩ về an ninh kinh tế và an ninh thực phẩm không hỗn tạp, chứ không phải là những chiến lược bảo hộ thương mại bất khả thi. Nếu Hàn Quốc có thể đàm phán thành công FTA với Hoa Kỳ, Nhật Bản cũng có thể làm như vậy.

Bằng cách ký kết vào CEESA, Nhật Bản sẽ trở nên cơ bản tích hợp trong thành phần phát triển nhanh nhất của các nước công nghiệp tiên tiến , hỗ trợ xây dựng cầu nối giữa các nền kinh tế tiên tiến và mới nổi được thể hiện bằng TPP, và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu bằng cách tạo ra khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới.

Quan hệ với các nước láng giềng.

Mối quan hệ mạnh mẽ Mỹ-Nhật Bản-Hàn Quốc.

Tuyệt đối quan trọng đối với liên minh, sự ổn định và thịnh vượng của khu vực là mối quan hệ mạnh mẽ của Mỹ-Nhật-Hàn Quốc. Ba đồng minh dân chủ ở châu Á chia sẻ các giá trị và nhũng lợi ích chiến lược chung. Xây dựng trên nền tảng này, Washington, Tokyo và Seoul nên góp chung vốn liếng ngoại giao để cùng nhau ngăn chặn việc theo đuổi vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên và giúp hình thành một môi trường khu vực tốt nhất phù hợp với phản ứng trước một Trung Quốc tái nổi trội.

Một lãnh vực mà cả ba quốc gia có quyền lợi sâu sắc trong việc xác định các quy tắc của hệ thống quốc tế trong tương lai là năng lượng hạt nhân. Khi Trung Quốc nổi lên trong hàng ngũ các cường quốc hạt nhân, nó sẽ trở thành rất quan trọng đối với các đồng minh như Nhật Bản và Hàn Quốc -- hai diễn viên quan trọng trong thị trường toàn cầu -- để bảo đảm các biện pháp bảo vệ thích hợp, thực hành không phổ biến vũ khí hạt nhân, và các tiêu chuẩn cao về sự minh bạch trong việc sản xuất năng lượng hạt nhân. Với dấu chân của Hoa Kỳ đang rút lui trong ngành năng lượng hạt nhân do chính sách không chắc chắn, kinh tế không thuận lợi (chủ yếu là do giá khí đốt tự nhiên thấp), và sự vắng mặt của một thỏa thuận 123 được đổi mới với Hàn Quốc, nó đặc biệt là kịp thời cho Tokyo và Seoul để đãm đương một vai trò lớn hơn trong việc xác định các tiêu chuẩn cho các thế hệ năng lượng hạt nhân toàn cầu. Việc tái cam kết của Nhật Bản đối với an toàn năng lượng hạt nhân và cam kết của Hàn Quốc đối với các tiêu chuẩn cao nhất về tính minh bạch và không phổ biến vũ khí hạt nhân khi là một nhà cung cấp năng lượng hạt nhân toàn cầu sẽ là rất quan trọng để bảo đảm tương lai của hệ thống quản trị này.

Một lĩnh vực khác cho hợp tác ba bên là hỗ trợ phát triển nước ngoài (ODA). Hoa Kỳ hiện đang có thỏa thuận hỗ trợ phát triển chiến lược với Nhật Bản và Hàn Quốc. Cả ba nước xem sự phát triển từ những quan điểm dựa trên các khái niệm tương tự, và từng là một nhà cung cấp sự hỗ trợ quan trọng trên toàn cầu . Hàn Quốc là nước nhận viện trợ internet đầu tiên của sự tài trợ trên thế giới để trở thành một nhà cung cấp internet. Những quốc gia nhận lớn nhất của nó ngày hôm nay là Afghanistan và Việt Nam -- là những quốc gia có tầm chiến lược quan trọng đối với cả Hoa Kỳ và Nhật Bản--. Hàn Quốc hiện có phiên bản 4000 mạnh mẽ của Peace Corps riêng của mình với các nam nữ thanh niên tham gia phát triển và các dự án quản trị tốt khắp nơi trên thế giới. Ba đồng minh sẽ được hưởng lợi từ tổng hợp tầm nhìn và các quỹ của họ vào một thỏa thuận có tính cộng tác khi họ thúc đẩy phát triển chiến lược trên khắp thế giới.

Ngoài các giá trị chung và lợi ích kinh tế chung, Hoa Kỳ, Nhật Bản, và Hàn Quốc chia sẻ mối quan tâm an ninh chung. Các lĩnh vực cốt lõi của sự hội tụ thừa nhận ba nền dân chủ như là các đồng minh tự nhiên. Tuy nhiên, những khác biệt ngắn hạn kềm chế tiến bộ trên nhiều sự cộng tác ba bên mà nó rất cần thiết để ngăn chặn việc theo đuổi vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên và thúc đẩy một môi trường khu vực thích hợp nhất để xử lý với một Trung Quốc nổi lên lại.

Nó không phải là nơi của chính phủ Hoa Kỳ đưa ra phán quyết về các vấn đề nhạy cảm lịch sử; tuy nhiên, Hoa Kỳ phải cố gắng nỗ lực ngoại giao đầy đủ để giải tỏa căng thẳng và tập trung lại sự chú ý của các đồng minh của mình trên lợi ích cốt lõi an ninh quốc gia và tương lai. Để liên minh nhận thức rỏ tiềm năng đầy đủ của nó, điều căn bản là Nhật Bản đang khó khăn đương đầu với các vấn đề lịch sử tiếp tục làm phức tạp mối quan hệ với Hàn Quốc. Trong khi chúng ta hiểu được các động lực phức tạp của tình cảm và chính trị trong nước trên các vấn đề này, những hành vi chính trị như quyết định gần đây của Tòa án Tối cao Hàn Quốc cho phép các trường hợp bồi thường thiệt hại cho cá nhân được lắng nghe, hoặc những nỗ lực của chính phủ Nhật Bản vận động các quan chức Mỹ không dựng lên các đài tưởng niệm phụ nử hộ lý, chỉ làm nóng tình cảm và làm rối trí các nhà lãnh đạo Hàn Quốc và Nhật Bản và công chúng của họ, rời ra khỏi các ưu tiên chiến lược rộng lớn hơn mà họ cần chia sẻ và phải hành động theo.

Seoul và Tokyo sẽ đánh giá lại mối quan hệ song phương thông qua một ống kính chính sách thực dụng. Tình trạng thù địch mang tính lịch sử không phải là sự đe dọa chiến lược đối với hai nước. Hai nền dân chủ sẽ không đi đến chiến tranh qua những vấn đề này, trước những yêu sách hợp lý về kinh tế, chính trị, và an ninh mà cả hai đều có trong mối quan hệ.

Tuy nhiên, tình trạng gây hấn của Bắc Triều Tiên và sức mạnh quân sự ngày càng tăng, khả năng, và sự quyết đoán của Trung Quốc đặt ra những thách thức chiến lược xác thật cho cả hai nước. Từ năm 2010, hạt nhân và các mối đe dọa tên lửa của Bắc Triều Tiên đã được bổ sung bằng các hành vi khiêu khích quân sự thông thường như đánh chìm tàu hải quân Hàn Quốc ở Cheonanand, pháo binh bắn phá đảo Yeonpyeong. Thử nghiệm tên lửa tầm xa gần đây nhất của Kim Jong-un và quyền lực vùng vẫy nhiều hơn nữa trên mặt quân sự tước mất nền ở hòa bình Đông Bắc Á. Các đồng minh phải chống lại sự cám dỗ gợi lại những khác biệt lịch sử sâu sắc và sử dụng tình cảm dân tộc cho các mục đích chính trị trong nước. Ba đồng minh nên mở rộng con đường chính thức để nỗ lực giải quyết các vấn đề lịch sử. Một số diễn đàn như vậy đang tồn tại hiện nay, nhưng những người tham gia nên làm việc tích cực trên các tài liệu đồng thuận liên quan đến các chỉ tiêu, nguyên tắc chung, và các tương tác trên các vấn đề lịch sử và mang những ý tưởng đó đi vào quan điểm của chính phủ mình.
.
Tháng 6 năm 2012 Mỹ-Nhật-Hàn Quốc tham gia cuộc diễn tập hải quân ba bên đại diện cho một bước đi đúng hướng trong việc đặt sang một bên các vấn đề lịch sử chia rẽ để đối mặt với những mối đe dọa lớn hơn ở ngày nay. Thêm nửa, hành động nhanh chóng để kết thúc những hiệp ước quốc phòng còn bỏ ngỏ chẵng hạn như Hiệp ước an ninh chung về thông tin quân sự (GSOMIA), mà qua đó sẽ cho phép Tokyo và Seoul chia sẻ có hệ thống về thông tin tình báo ở Bắc Triều Tiên, và Hiệp ước Thủ đắc và Bảo quản hổ tương (ACSA), trong đó khuyến khích chia sẻ các thiết bị quân sự ; là các loại hiệp ước quân sự thực tiển và cùng hoạt động mang lại lợi ích cho các lợi ích an ninh của ba nước đồng minh.

Sự tái nổi lên của Trung Quốc.

Sự nổi lên nhanh chóng của Trung quốc trong trọng lượng kinh tế, sức mạnh quân sự và ảnh hưởng chính trị trong ba thập kỷ qua đã không chỉ cải tiến đáng kể quốc gia đông dân nhất thế giới mà nó còn ảnh hưởng lớn đến cảnh quan địa chính trị thời hậu chiến tranh lạnh của Đông Á. Chẵng những không kềm chế việc tái trổi dậy của Trung Quốc, liên minh Mỹ-Nhật mạnh mẽ đã đóng góp cho nó bằng cách giúp đỡ để cung cấp một sự ổn định, dự đoán được, và môi trường an toàn mà trong đó Trung Quốc đã phát triển. Liên minh có lợi ích trong sự thành công của Trung Quốc. Tuy nhiên, sự thiếu minh bạch và sự mơ hồ là Trung Quốc có ý định sử dụng sức mạnh mới phát hiện của nó như thế nào -- để củng cố các tiêu chuẩn quốc tế hiện hành, sửa đổi chúng theo với lợi ích quốc gia của Bắc Kinh, hoặc cả hai -- là một lãnh vực quan tâm ngày càng tăng.

Một trong những lãnh vực đặc biệt khó chịu là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc có thể mở rộng. Ngoài ba khu vực chính thức -- Tân Cương, Tây Tạng, và Đài Loan -- đã có sự tham chiếu đến Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa) và quần đảo Senkaku như là những lợi ích phát sinh. Trong khi mới đây không chính thức và không khai báo, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã gia tăng sự hiện diện hải quân ở Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ) và biển Đông Trung Quốc dẫn dắt chúng ta đến suy luận một cách khác. Các chủ đề được chia sẻ về chủ quyền tiếp tục đặt ra câu hỏi về ý định của Bắc Kinh trong quần đảo Senkaku và Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ). Một điều chắc chắn -- các tuyên bố lợi ích cốt lõi mơ hồ của Trung Quốc tiếp tục làm suy giảm uy tín ngoại giao của nó trong khu vực.

Chiến lược của liên minh đối với Trung Quốc là một sự pha trộn của những cam kết và bảo hiểm rủi ro, phù hợp với sự không chắc chắn về phương thức mà Trung Quốc có thể chọn lựa để sử dụng sức mạnh quốc gia toàn diện của nó đang phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, hầu hết các hướng của hàng rào đồng minh đều chống lại sức mạnh quân sự và sự quyết đoán chính trị ngày càng tăng của Trung Quốc -- mở rộng dần dần phạm vi địa lý của các hoạt động của liên minh, hoạt động chung trên công nghệ phòng thủ tên lửa, sự chú ý cao độ đến khả năng tương tác và các nhiệm vụ liên quan đến việc duy trì tuyến thông tin liên lạc dưới biển, những nỗ lực để tăng cường các thể chế khu vực chẵng hạn như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đổi mới tập trung vào tự do hàng hải, và sự khởi động trong tháng 12 năm 2011 của đối thoại chiến lược ba bên mới Mỹ-Nhật-Ấn Độ đã được dựa trên giả định rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục dọc theo một con đường tăng trưởng kinh tế cao, thực hiện khả năng so sánh chi tiêu quốc phòng và những năng lực. Giả định đó không còn được bảo đảm. Khi Trung Quốc di chuyển vào thập kỷ thứ tư kể từ khi ra mắt "cải cách và mở cửa" của Đặng Tiểu Bình vào năm 1979, có nhiều dấu hiệu cho rằng sự tăng trưởng đang chậm lại. Câu hỏi tồn tại về khả năng của Trung Quốc chuyển hướng từ một nước chủ yếu xuất khẩu đến nền kinh tế định hướng tiêu thụ trong nước.

Trong những năm tới, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ phải giải quyết ít nhất sáu nổi lo âu : hạn chế năng lượng, thảm họa suy thoái môi trường, thực tại nhân khẩu học làm thoái chí, thu nhập bất bình đẳng mở rộng giữa người dân và các tỉnh, những bất ổn dân tộc thiểu số ở Tân Cương và Tây Tạng, và nạn tham nhũng chính thức là căn bệnh. Thành công kinh tế bổ sung thêm vào danh sách này sự không chắc chắn trong việc đối phó với "bẫy thu nhập trung bình", theo đó nhóm thu nhập trung bình ngày càng tăng đặt ra áp lực khác thường lên các cơ cấu chính trị của Trung Quốc để đáp ứng những mong đợi gia tăng của họ. Bất kỳ một trong những thách thức nào cũng có thể làm hỏng con đường tăng trưởng kinh tế và đe dọa ổn định xã hội của Trung Quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhận thức được những thách thức khó khăn này, đó là một trong những lý do mà các nhà lãnh đạo của nó thúc đẩy chi tiêu cho an ninh nội bộ hơn 120 tỷ $ cho năm 2012, tương đương với mức chi cho ngân sách quốc phòng. PLA vẫn còn tập trung vào việc phát triển để có đủ khả năng đối phó với các mối đe dọa bên ngoài, bao gồm cả việc ngăn chặn Đài Loan chuyển hướng đi đến độc lập hợp pháp. Tuy nhiên, ĐCSTQ vẫn có liên quan đến các mối đe dọa nội bộ.

Một Trung Quốc tình cờ rất có thể cho ra mắt liên minh với các thách thức mà nhất thiết không phải nhỏ hơn -- chỉ khác nhau. Tất cả chúng ta đều gặt hái được nhiều từ một Trung Quốc hòa bình và thịnh vượng. Ngoài ra, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang đối mặt với các vết nứt nội bộ nghiêm trọng, họ có thể nương náu ở tinh thần chủ nghĩa dân tộc, có thể khai thác một mối đe dọa bên ngoài, có thật hay tưởng tượng, để tạo lại sự thống nhất. Để duy trì trật tự, lãnh đạo có thể trở lại các biện pháp hà khắc hơn bao giờ hết, làm trầm trọng thêm những vi phạm nhân quyền hiện nay, xa lánh một số đối tác nước ngoài, và phá hoại sự đồng thuận chính trị mà nó đã định hướng cho các cam kết của phương Tây với Trung Quốc kể từ khi Nixon mở cửa 40 năm trước đây.

Ngoài ra, một chủ tịch tương lai của Trung Quốc có thể nắm lấy một chu kỳ cải cách chính trị mới, như kêu gọi của Thủ tướng Ôn Gia Bảo, với những hậu quả khác nhau đối với chính trị trong nước của Trung Quốc và tư thế ở bên ngoài. Chỉ có một điều chắc chắn là : liên minh phải phát triển những năng lực và chính sách thích ứng với quỹ đạo đang thay đổi của Trung Quốc và một phạm vi rộng lớn có thể có trong tương lai. Tăng trưởng kinh tế cao và quyền lực chính trị không thay đổi không ở nơi các nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc trong tương lai đang được mong đợi, và chúng ta nên am hiểu nó bằng sự chỉ trích của họ.

Nhân quyền và Liên minh Mỹ-Nhật : Phát triển một Chương trình Hành động

Ngày 30 tháng 4 năm 2012, Tuyên bố chung về tương lai của liên minh Mỹ-Nhật Bản bao gồm những tham khảo rõ ràng về các giá trị phổ biến mà qua đó củng cố mối quan hệ : "Nhật Bản và Hoa Kỳ chia sẻ một cam kết đối với dân chủ, quy định pháp luật, xã hội cởi mở, nhân quyền, an ninh con người, và thị trường tự do và cởi mở ; những giá trị này hướng dẫn chúng ta trong những nỗ lực chung để giải quyết các thách thức toàn cầu của thời đại chúng ta". Những cam kết sau cùng của bản Tuyên bố chung thao tác các giá trị chung : "Chúng tôi cam kết làm việc với nhau để thúc đẩy các quy định pháp luật, bảo vệ quyền con người, và tăng cường phối hợp trên việc gìn giữ hòa bình, ổn định sau xung đột, hỗ trợ phát triển, tội phạm có tổ chức và buôn bán bất hợp pháp các chất ma tuý, và các bệnh truyền nhiễm".

Phát triển một chương trình hành động cụ thể hơn về quyền con người là một mục tiêu đáng ngưỡng mộ, và có rất nhiều mục tiêu có thời cơ. Thúc đẩy cải cách dân chủ ở Miến Điện (Myanmar) là một ưu tiên cao. Hoa Kỳ và Nhật Bản nên tận dụng các đòn bẩy kinh tế cung cấp bởi đầu tư thuộc khu vực tư nhân, viện trợ nước ngoài và các khoản vay từ các tổ chức tài chính quốc tế để thúc đẩy quản trị tốt, quy định pháp luật và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người. Bằng cách thiết lập các tiêu chuẩn cao nhất đối với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và bằng việc bảo đảm rằng tất cả các bên liên quan của Miến Điện -- bao gồm cả người dân tộc thiểu số và phe đối lập chính trị -- được tư vấn và tham gia vào tương lai kinh tế của Miến Điện, Washington và Tokyo có thể ũng hộ những người đó ở Miến Điện, những người đang làm việc để biến đổi quốc gia từ một chế độ độc tài quân sự tàn bạo trở thành một nền dân chủ điển hình thật sự. Những nỗ lực phối hợp tương tự, nếu được hướng dẫn bởi một cam kết xác thật thúc đẩy luật nhân đạo quốc tế và bảo vệ xã hội dân sự, có thể có lợi ở Campuchia và Việt Nam, hai quốc gia với những ghi nhận thiếu nhân quyền mà ở đó Hoa Kỳ gần đây đã tăng cường hợp tác an ninh, và là nơi mà Nhật Bản có quyền lợi kinh tế và chính trị đáng kể. Gần gũi hơn với Nhật Bản, Bắc Triều Tiên đưa ra một câu hỏi hóc búa. Vi phạm nhân quyền của Bình Nhưỡng cũng là hồ sơ nghiêm trọng, và cả Hoa Kỳ lẫn Nhật Bản đã lên tiếng về chúng. Tuy nhiên, Hoa Kỳ có truyền thống xem mối quan tâm về nhân quyền ở Bắc Triều Tiên như một việc làm lãng đi "sự kiện chính" là phi hạt nhân hóa, và Nhật Bản đã tập trung phần lớn về số phận công dân Nhật Bản bị bắt cóc bởi Bắc Triều Tiên nhiều năm trước đây. Chúng tôi tái khẳng định ủng hộ đối với những nỗ lực của Nhật Bản để nhận được một kết toán đầy đủ về tất cả các người bị bắt cóc, và chúng tôi đề nghị Nhật Bản và Hoa Kỳ hợp tác chặt chẽ trên vấn đề này trong bối cảnh một chiến lược rộng lớn hơn đối với việc tham gia có hiệu quả về quyền con người và các vấn đề khác với Bắc Triều Tiên.

Các giải pháp cho liên minh, cùng với Hàn Quốc, có thể nằm trong việc mở rộng phạm vi quan tâm, giải quyết toàn bộ các vấn đề nhân đạo trên bán đảo Triều Tiên : không chỉ là việc bắt cóc, tù nhân chính trị, và những hạn chế nghiêm trọng về tự do chính trị và tôn giáo ; mà còn là an ninh thực phẩm, cứu trợ thảm họa, y tế công cộng, giáo dục và giao lưu văn hóa. Với việc đàm phán sáu bên về phi hạt nhân hóa của bán đảo bị đình chỉ thực sự, một chương trình tập trung vào nhân đạo, hợp tác chặt chẽ với Seoul và các đối tác có liên quan khác, có thể cung cấp cho các đồng minh một cơ hội để thay đổi môi trường chiến lược bên trong những điều mà lãnh đạo mới của Bình Nhưỡng sẽ lập biểu đồ cho tương lai của Bắc Triều Tiên.

Hướng tới một chiến lược an ninh mới.

Tham gia An ninh Khu vực.

    Tập trận chung Mỹ - Nhật - Hàn quốc
  •  Ngoài việc cam kết các vấn đề chức năng như năng lượng hạt nhân, ODA, và nhân quyền, Tokyo sẽ được phục vụ tốt để tiếp tục tham gia với các diễn đàn khu vực, cụ thể là ASEAN, Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), cũng như với các đối tác dân chủ trong khu vực, đặc biệt là Ấn Độ, Australia, Philippines và Đài Loan. Nhật bản đã tăng cường cơ sở cho mối quan hệ với các đối tác khu vực vượt ra ngoài các giá trị chung và hướng đến các lợi ích và mục tiêu chung. Nhật Bản nên tiếp tục hợp tác với các đối tác trong khu vực để thúc đẩy một nền hòa bình và môi trường hàng hải hợp pháp để bảo đảm không bị cản trở thương mại trên biển, và để thúc đẩy kinh tế tổng thể và an ninh tốt đẹp.

Môi trường an ninh đã thay đổi đáng kể, nhưng do đó, có các thành phần chiến lược tương ứng của chúng ta. Khi một vai trò, nhiệm vụ và khả năng (RMC) cuối cùng được xem xét hoàn thành, chiến lược quốc phòng của Nhật Bản được mở rộng chủ yếu về phía bắc và phía nam. Việc xem xét mở rộng phạm vi địa lý và gia tăng các khả năng của liên minh ở Đông Á trong thập niên 1980, và việc xem xét trong thập niên 1990 đã làm sáng rõ những chức năng đối với các lĩnh vực hợp tác quốc phòng mở cửa của Nhật Bản. Ngày nay, các lĩnh vực quan tâm được mở rộng hơn nữa về phía nam và xa hơn về phía tây -- xa như Trung Đông. Chúng ta nên xác định lại một cách đầy đủ chiến lược của chúng ta và phối hợp những đường lối của chúng ta và các phương tiện thực hiện. Một đánh giá mới sẽ bao gồm một phạm vi địa lý rộng lớn hơn cũng như một sự kết hợp bao gồm tất cả sức mạnh quốc gia trên các lãnh vực quân sự, chính trị, và kinh tế của chúng ta .

Chiến lược Quốc phòng : Hướng tới Khả năng tương tác của Đồng Minh

Nhật Bản có thể thực hành đầy đủ hơn về quốc phòng và ngoại giao quân sự thông qua việc xây dựng năng lực và các biện pháp song phương và đa phương. Một vai trò và xem xét nhiệm vụ mới nên mở rộng phạm vi trách nhiệm của Nhật Bản để bao gồm các phòng thủ của Nhật Bản và quốc phòng với Hoa Kỳ trong những sự kiện bất ngờ của khu vực. Phần lớn thách thức trước mắt ở trong láng giềng riêng của Nhật Bản. Tuyên bố chủ quyền quyết đoán của Trung Quốc với hầu hết Biển Đông của Trung Quốc và hầu như toàn bộ Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa) và sự gia tăng đầy kịch tính trong tiến độ hoạt động của PLA và các dịch vụ hàng hải khác, bao gồm cả việc lặp đi lặp lại vòng quanh đường biển Nhật Bản ; nó tiết lộ ý định của Bắc Kinh nhằm khẳng định ảnh hưởng chiến lược lớn hơn xuyên suốt qua "chuỗi đảo đầu tiên" (Nhật Bản-Đài Loan-Philippines) hoặc những gì mà Bắc Kinh coi là "Biển gần". Trong phản ứng với các loại thách thức chống tiếp cận / khắc chế khu vực (A2AD), Hoa Kỳ đã bắt đầu làm việc trên khái niệm hoạt động mới như Hải -Không Chiến và Khái niệm Tiếp cận Hoạt động Chung (JOAC). Nhật Bản đã bắt đầu làm việc trên các khái niệm song song như "phòng thủ năng động". Trong khi Hải quân Mỹ và Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản có lịch sử dẫn đầu trong khả năng tương tác song phương, môi trường mới đòi hỏi sự hội nhập lớn hơn đáng kể và khả năng tương tác qua các dịch vụ ở cả hai nước và song phương giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản. Thách thức này nên có ở cốt lõi của các cuộc đối thoại song phương RMC và phải được tích hợp đầy đủ và định hướng tiến về phía trước bởi lãnh đạo cao cấp trong bộ Quốc phòng và bộ Ngoại giao Mỹ cùng với Bộ Quốc phòng (MOD) và bộ Ngoại giao (MOFA) Nhật Bản. Trong giai đoạn hạn chế ngân sách, RMC không thể được giải quyết từng phần hoặc bởi các quan chức cấp thấp hơn.

Hai lĩnh vực bổ sung cho tiềm năng tăng cường hợp tác quốc phòng của liên minh là việc rà phá thuỷ lôi ở Vịnh Ba Tư và giám sát chung trên Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa). Vịnh Ba Tư là một trung tâm thương mại quan trọng toàn cầu và là trung tâm quá cảnh năng lượng. Ở dấu hiệu khoa trương đầu tiên hoặc dấu hiệu về ý định của Iran đóng cửa eo biển Hormuz, Nhật Bản nên đơn phương gửi tàu quét mìn đến khu vực để đối phó với động thái quốc tế bất hợp pháp này. Hòa bình và ổn định ở Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ) là một quan tâm quan trọng của đồng minh với nét nổi bật đặc biệt sâu sắc đối với Nhật Bản. Với 88% nguồn cung cấp của Nhật Bản, bao gồm nguồn tài nguyên năng lượng quan trọng, quá cảnh qua Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa), đó là lợi ích của Nhật Bản để tăng cường giám sát trong sự hợp tác với Hoa Kỳ để bảo đảm sự ổn định và đuợc tiếp tục tự do vận chuyển hàng hải.

Sự khác biệt giữa "Quốc phòng Nhật Bản" và an ninh khu vực là mỏng manh. Một eo biển Hormuz bị đóng kín hay một bất ngờ quân sự tại Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa) sẽ có tác động nghiêm trọng đối với an ninh và ổn định của Nhật Bản. Chiến tranh rình mò một thời trước đây và phép loại suy về lá chắn bảo vệ đơn giản hóa quá mức động lực an ninh ngày nay và che đậy thực tế rằng Nhật Bản cần những trách nhiệm tấn công để cung ứng cho phòng thủ của quốc gia. Cả hai đồng minh yêu cầu mạnh mẽ hơn, chia sẻ, và tương tác các khả năng tình báo, giám sát và trinh sát (ISR), và các hoạt động mở rộng vượt ra ngoài lãnh thổ Nhật Bản. Về phần mình, lực lượng Hoa Kỳ ở Nhật Bản (USFJ) cần phải được phân công các vai trò cụ thể trong việc bảo vệ Nhật Bản. Với mục tiêu về năng lực hoạt động và cuối cùng USFJ-JSDF ghép nối khả năng của lực lượng đặc nhiệm trong tâm trí, Hoa Kỳ cần phải phân bổ trách nhiệm lớn hơn và ý thức nhiệm vụ đối với USFJ.

Giữa việc hiện ra lờ mờ cắt giảm ngân sách và thắt lưng buộc bụng tài chính ở cả Washington và Tokyo, sử dụng tài nguyên thông minh hơn là cần thiết để duy trì các khả năng. Một biểu hiện chính của sự thực hiện đầy đủ tài nguyên thông minh hơn là khả năng tương tác. Khả năng tương tác không phải là một từ ứng xử để mua thiết bị của Mỹ. Tại cốt lõi của nó, đó là khả năng cơ bản để làm việc cùng nhau. Hải quân Mỹ và Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản đã chứng minh khả năng này trong nhiều thập kỷ. Không quân Mỹ và Không quân Phòng vệ Nhật Bản (JASDF) đang thực hiện các tiến bộ, nhưng hợp tác của Thuỷ quân Lục chiến của quân đội Mỹ với của Lực lượng Phòng vệ mặt đất Nhật Bản (JGSDF) đã bị hạn chế do một sự tương phản ở sự tập trung. Hoa Kỳ đã tập trung nỗ lực của mình trong việc chiến đấu ở các cuộc chiến tranh mặt đất ở Trung Đông, trong khi Nhật Bản đã tiến hành gìn giữ hòa bình và hoạt động cứu trợ thiên tai.
.
Một cách để tăng cường khả năng tương tác là nâng cao chất lượng của các cuộc tập trận quốc phòng song phương. Không quân Mỹ và lực lượng không quân của Hải quân kết hợp với JSDF nên tiến hành đào tạo hàng năm luân phiên ở các sân bay dân sự. Các lĩnh vực đào tạo mới có thể mô phỏng một phạm vi rộng hơn về những sự kiện bất ngờ tiềm tàng, cung cấp cho cả hai lực lượng tiếp xúc nhiều hơn, và cung cấp một cảm giác chia sẻ gánh nặng với người dân Okinawa. Thứ hai, JSDF và các lực lượng Hoa Kỳ nên kiểm tra các bài học kinh nghiệm từ chiến dịch Tomodachi để nâng cao năng lực chung trong việc đối phó với khủng hoảng. Thứ ba, JGSDF, trong khi duy trì các hoạt động gìn giữ hòa bình (PKO) đáng chú ý và các hoạt động cứu trợ thiên tai, nên xem xét tăng cường khả năng đổ bộ. Chuyển hướng các tư thế lực lượng JGSDF từ cơ sở trên mặt đất đến một lực lượng nhanh nhẹn và có thể triển khai sẽ chuẩn bị tốt hơn cho các đồng minh đối với cấu trúc của các lực lượng trong tương lai. Thứ tư, Hoa Kỳ và Nhật Bản nên thực hiện sử dụng đầy đủ các phạm vi đào tạo mới tại Guam và Khối Cộng đồng Quần đảo Bắc Mariana (CNMI), cũng như các cơ sở mới được chia sẻ ở Darwin, Australia. Khả năng viễn chinh hàng hải chung là một trọng tâm cốt lõi đối với Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Canada, và New Zealand. Đào tạo với các lực lượng Mỹ, đặc biệt là Thủy quân lục chiến, sẽ tăng cường mở rộng hơn nửa khả năng tương tác. Cuối cùng, Tokyo cần tăng cường khả năng pháp lý của MOD để bảo vệ các bí mật an ninh quốc gia của cả hai bên và thông tin bí mật. Chế độ pháp lý hiện tại không hỗ trợ các tiêu chuẩn tương tự trong việc bảo mật. Sự kết hợp của chính sách và đào tạo quốc phòng nghiêm ngặt sẽ tăng tốc các khả năng của lực lượng hoạt động đặc biệt (SOF) non trẻ của Nhật Bản và cải thiện khả năng tương tác.

Hợp tác Công nghệ, Nghiên cứu và Phát triển chung.

Khía cạnh thứ hai của khả năng tương tác là phần cứng. Với thực tế kinh tế của cả Mỹ lẫn Nhật Bản và tính không chắc có thật của việc gia tăng ngân sách quốc phòng, có một yêu cầu là hợp tác ngành công nghiệp quốc phòng chặt chẽ hơn. Sự xét lại của Nhật Bản về "Ba nguyên tắc xuất khẩu vũ khí" đã làm tăng cửa sổ chính sách xuất khẩu vũ khí và hợp tác công nghệ. Trong khi hợp tác chung sẽ cắt giảm chi phí cho cả hai chính phủ và tăng cường các mối quan hệ toàn ngành công nghiệp (giống như các mối quan hệ đối tác giữa các công ty quốc phòng châu Âu và Mỹ nhiều thập kỷ trước), liên minh vẫn chưa xác định làm thế nào để di chuyển về phía trước trong lĩnh vực này.

Hoa Kỳ cần phải tận dụng lợi thế của sự thay đổi chính sách và khuyến khích ngành công nghiệp quốc phòng Nhật Bản xuất khẩu công nghệ. Đã là quá khứ khi người Mỹ phải lo ngại về xuất khẩu quốc phòng của Nhật Bản đặt ra một mối đe dọa đối với an ninh Mỹ hoặc cơ sở công nghiệp của chúng ta. Trên cấp độ vi mô, Hoa Kỳ cần phải nhập khẩu (và Nhật Bản nên xuất khẩu tự do) điện tử, công nghệ nano, vật liệu tổng hợp, và các thành phần có giá trị cao khác. Đồng minh thương mại trong lĩnh vực này sẽ cung cấp cho các công ty quốc phòng của Mỹ tiếp cận công nghệ tinh vi nguồn thứ cấp hoặc công nghệ nguồn sơ cấp mà Nhật Bản đã độc quyền sản xuất, hoặc sản xuất theo giấy phép. Nhập khẩu từ Nhật Bản cũng có khả năng để điều hướng giảm chi phí và nâng cao chất lượng của các sản phẩm quốc phòng của Hoa Kỳ và Nhật Bản.

Trên mức độ vĩ mô, việc nới lỏng các hạn chế tạo điều kiện cho các cơ hội đối với sự phát triển chung của các loại vũ khí phức tạp trong tương lai và những hệ thống an ninh khác. Phòng thủ tên lửa đã là một mô hình tuyệt vời trong lĩnh vực này. Chương trình này chứng tỏ rằng liên minh có thể cùng phát triển, hợp tác sản xuất, và đồng sử dụng hệ thống phòng thủ cực kỳ phức tạp, với sự hợp tác chứ không phải là cạnh tranh, ở cốt lõi của nó. Trong ngắn hạn, chương trình trang bị vũ khí cho đồng minh nên xem xét các dự án cụ thể hửu ích lẫn nhau và những nhu cầu hoạt động. Tuy nhiên, liên minh cũng cần xác định các yêu cầu hoạt động lâu dài cho sự phát triển chung. Các lĩnh vực vũ khí có khả năng hợp tác có thể là máy bay chiến đấu thế hệ tiếp theo, tàu chiến, radar, thang máy chiến lược, thông tin liên lạc, và các khả năng tổng thể của ISR. Ngoài ra, Hoa Kỳ nên khuyến khích xuất khẩu vũ khí và hợp tác công nghệ giữa Tokyo và các đồng minh khác. Ví dụ, Úc ở trong các cuộc thảo luận với Nhật Bản về hợp tác công nghệ trên các tàu ngầm diesel và có khả năng tham gia tấn công máy bay chiến đấu. Hoa kỳ nên khuyến khích đối thoại và xây dựng trên đà này.

Hoa Kỳ và Nhật Bản là hai thực thể nghiên cứu và phát triển lớn nhất và có khả năng nhất trên toàn cầu. Như là những đồng minh chúng ta nên kết hợp những khả năng và đạt được hiệu quả trong lĩnh vực với chi phí gia tăng nhanh chóng và phức tạp. Một khuôn khổ liên minh cho những cánh tay hợp tác sẽ yêu cầu tổ chức tốt hơn. Trong quá khứ, hợp tác đã bị hạ tầng với các nghành khoa học và diển đàn công nghệ (S & TF), một cơ quan hoạt động một cách riêng biệt từ chính sách trung tâm Ủy ban Tư Vấn An ninh . Hội nhập lớn hơn của hai cơ quan này sẽ đạt được hiệu lực của liên minh và hiệu quả trong việc trang bị vũ khí. Cơ bản cho nỗ lực này sẽ là cải cách quá trình Bán hàng quân sự cho nước ngoài (FMS) của Hoa Kỳ , không còn phản ánh ngân sách ngày nay, quân sự, và nhũng thực tế công nghệ.

An ninh Mạng

An ninh Mạng là một khu vực chiến lược đang nổi lên mà yêu cầu giải thích chi tiết hơn về vai trò và tiêu chuẩn của Hoa Kỳ và của Nhật Bản . Tất cả các hoạt động quốc phòng, hợp tác, và sự tham gia chung phụ thuộc sâu sắc vào uy tín và năng lực của các biện pháp bảo đảm thông tin. Trong những năm gần đây sự gia tăng trong các trường hợp tấn công không gian mạng và hacking mạng, đặc biệt là các cơ quan chính phủ và các tập đoàn công nghiệp quốc phòng, đã đe dọa sự an toàn của dữ liệu nhạy cảm và đổi mới các nguy cơ thông tin bí mật rơi vào tay của bọn khủng bố và quân nổi dậy.

Nếu không có biện pháp bảo vệ phổ biến và các tiêu chuẩn bảo đảm thông tin, các kênh thông tin liên lạc Mỹ-Nhật đang ngày càng dễ bị xâm nhập từ bên ngoài. Trong khi Hoa Kỳ quản lý quyền điều khiển không gian mạng cùng với Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA), Nhật Bản thiếu một cơ quan tương đương. Để làm giảm bớt sự chênh lệch này, Hoa Kỳ và Nhật Bản nên thiết lập một Trung tâm An ninh Mạng Chung để nghiên cứu và thực hiện các tiêu chuẩn bảo đảm thông tin thông thường. Một sáng kiến như vậy sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng an ninh mạng dễ bị tổn thương của Nhật Bản và có thể sẽ phù hợp với sự hỗ trợ phòng thủ quốc gia của Nhật Bản. Nếu không tham gia mạng và những tham vấn, việc tham gia lớn hơn của đồng minh vào các vấn đề an ninh sẽ phải đối mặt với những hạn chế.

Mở rộng Ngăn chặn

Một lĩnh vực quan trọng khác trong việc bảo vệ đồng minh đó là nhu cầu thúc đẩy sự tin tưởng được mở rộng sự ngăn chặn. Nhật Bản bị giằng xé giữa mong muốn nhìn thấy một thế giới phi hạt nhân và nổi quan ngại rằng nếu Hoa Kỳ cắt giảm lực lượng hạt nhân của mình để cân bằng với Trung Quốc ; độ tin cậy của Hoa Kỳ trong việc ngăn chặn mở rộng sẽ bị suy yếu và Nhật Bản sẽ phải chịu hậu quả. Thật là sai lầm khi tin rằng mở rộng ngăn chặn phụ thuộc vào tính chẵn lẻ trong số lượng vũ khí hạt nhân hoặc vị trí đặt vũ khí hạt nhân trong lãnh hải của Nhật Bản. Mở rộng ngăn chặn phụ thuộc vào sự kết hợp của khả năng và độ tin cậy. Trong thời gian chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ đã có thể bảo vệ Berlin bởi vì lời hứa của chúng ta, làm như vậy đã thực hiện được độ tin cậy bởi các nguyên tắc cao, liên minh NATO, và sự hiện diện của quân đội Mỹ mà qua đó loại trừ những thương vong của Mỹ khỏi một cuộc tấn công của Liên Xô là không thể. Hoa Kỳ và Nhật Bản cần khôi phục đối thoại mở rộng ngăn chặn hiện nay để thúc đẩy sự tin tưởng lẫn nhau trong chiến lược và khả năng mở rộng ngăn chặn của Mỹ . Bảo đảm tốt nhất của việc ngăn chặn mở rộng của Mỹ trên Nhật Bản mà vẫn còn sự hiện diện của quân đội Mỹ, được ũng hộ bởi sự hỗ trợ của quốc gia chủ nhà hào phóng Nhật Bản.
.
Futenma

Sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Nhật Bản ở xa khu vực thống nhất của đồng minh. Liên minh đã dành quá nhiều sự chú ý cao cấp trong thập kỷ qua trên các chi tiết của việc bố trí quân đội Mỹ trên đảo Okinawa. Kết quả là một vấn đề hạng ba, phi trường của Thuỷ quân Lục chiến Hoa Kỳ ở Futenma, đã ngốn thời gian và vốn liếng chính trị mà có thể sẽ được đầu tư tốt hơn trong việc hoạch định một cấu trúc tối ưu của các lực lượng cho những thập kỷ tới. Bất kỳ vấn đề di sản nào phát sinh từ các khuynh hướng trong quá khứ, chúng ta có khả năng tìm thấy chúng có thể giải quyết được dễ dàng hơn nếu chúng ta tập trung vững chắc trên tương lai.

Ngăn cấm tự vệ tập thể.

Cuộc khủng hoảng gấp ba lần của sự cố 11-3 và hoạt động Tomodachi nâng lên một sự mỉa mai thú vị cho việc triển khai các lực lượng Hoa Kỳ và Nhật Bản. Kể từ 11-3 không còn là một vấn đề của việc bảo vệ chống lại một mối đe dọa bên ngoài,
JSDF và các lực lượng Hoa Kỳ đã hành động mà không cần lưu ý đến những điều cấm tự vệ tập thể. Tàu chiến tranh của Mỹ chuyển quân của JGSDF ở Hokkaido phía đông bắc Nhật Bản để đáp ứng với các cuộc khủng hoảng. Lực lượng của cả hai quốc gia đã hành động để kích hoạt cảng hàng không quan trọng ở Sendai mà từ đó các tổ chức quân sự và dân sự tiến hành ứng phó và cứu trợ thiên tai . Những nỗ lực này tạo ra các điều kiện cho việc phục hồi ở Đông Bắc Á. Ngoài việc giải thích lỏng lẻo của Điều IX trong chiến dịch Tomodachi, Nhật Bản và Hoa Kỳ, trong sự hợp tác với các quốc gia khác, đang chiến đấu với cướp biển ở Vịnh Aden. Nhật Bản đã diễn dịch lại các vấn đề pháp lý để cho phép tham gia vào nhiệm vụ chống cướp biển quan trọng ở Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, điều trớ trêu là theo các điều kiện nghiêm trọng nhất trong yêu cầu bảo vệ lợi ích của Nhật Bản, các lực lượng của chúng ta đã bị ngăn cản một cách hợp pháp trong việc bảo vệ chung với Nhật Bản.

Một sự thay đổi trong cấm tự vệ tập thể của Nhật Bản sẽ giải quyết cái trớ trêu đó một cách đầy đủ. Một thay đổi trong chính sách không nên tìm kiếm một quyền chỉ huy thống nhất, một Nhật Bản quân sự hung hăng hơn, hoặc thay đổi trong Hiến pháp Hòa bình của Nhật Bản. Cấm tự vệ tập thể là một trở ngại cho liên minh.(7)Sự cố 3-11 đã chứng minh cách thức mà hai lực lượng của chúng ta có thể tối đa hóa khả năng của chúng ta khi cần thiết. Nó sẽ là một ủy quyền có trách nhiệm cho phép các lực lượng của chúng ta đáp ứng trong hợp tác đầy đủ xuyên suốt sự phân bố an ninh theo mỗi tình huống : thời bình, căng thẳng, khủng hoảng, và chiến tranh.

Những hoạt động gìn giữ hòa bình.

Năm 2012 đánh dấu kỷ niệm 20 năm tham gia của Nhật Bản trong các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hiệp quốc. Tại Nam Sudan, JSDF đang xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản để giúp chính phủ non trẻ trong việc mở rộng thẩm quyền nhà nước. Ở Djibouti, JSDF được bố trí nhiệm vụ chống cướp biển tuần tra Vịnh Aden. Ở Haiti, JSDF tham gia tiến hành tái thiết sau thảm họa và ngăn chặn sự lây lan của bệnh truyền nhiễm đầy tranh cãi. Vai trò và trách nhiệm của PKO là khó khăn và gần như thường xuyên được bổ sung với một môi trường và điều kiện sống khắc nghiệt. Thông qua sự tham gia của Nhật Bản trong PKO, JSDF đã mở rộng cam kết quốc tế của họ và chuẩn bị cho các hoạt động chống khủng bố, không phổ biến vũ khí hạt nhân, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai. Để được phép tham gia đầy đủ hơn, chúng tôi đề nghị Nhật Bản mở rộng phạm vi pháp lý cho lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế của mình để bảo vệ thường dân, cũng như để bảo vệ lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế khác, với sức mạnh, nếu cần thiết.

PKO vẫn còn là một đóng góp quốc tế hữu hình và đáng khen ngợi. Nhận thức của JSDF đang thay đổi, và chúng được xem như là một trong những công cụ hữu hiệu nhất của chính sách đối ngoại của Nhật Bản.

Kết luận

Thảo luận chính thức hiện nay về Nhật Bản bị quấy rầy với cách chọn từ ngữ "cuộc khủng hoảng," "thách thức", và "do dự".

Trong khi những lời này có thể gợi ý một quốc gia suy giảm, chúng tôi không tin rằng đó là một kết luận có dự tính trước. Chúng tôi cho rằng Nhật Bản đang ở tại một thời điểm quan trọng. Nhật Bản có sức mạnh để quyết định giữa tự mãn và lãnh đạo tại một thời điểm có tầm quan trọng chiến lược. Với những thay đổi năng động đang diễn ra trên toàn khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, Nhật Bản có khả năng sẽ không bao giờ có cơ hội tương tự để giúp hướng dẫn số phận của khu vực.

Trong việc lựa chọn lãnh đạo, Nhật Bản có thể bảo đảm tình trạng của mình như là một "quốc gia cấp 1" và vai trò cần thiết của mình như là một đối tác bình đẳng trong liên minh. Trong thời đại thay đổi này, Chiến dịch Tomodachi đã trả giá cho liên minh Mỹ-Nhật Bản một thời gian. Nó đã cho liên minh ý nghĩa và giá trị nó khẩn cấp yêu cầu theo sau bất hòa chính trị mang phong cách riêng trong ba năm qua. Tuy nhiên, sẽ không đủ để mang liên minh vưọt qua những thử thách nó phải đối mặt. Cảnh quan chiến lược phát triển nhanh chóng và các thách thức ngân sách to lớn yêu cầu thông minh hơn và thích nghi tham gia nhiều hơn vào một phần của Hoa Kỳ và Nhật Bản. Các khuyến nghị trong báo cáo này là một nỗ lực để làm nổi bật các lĩnh vực mà Hoa Kỳ và Nhật Bản có thể di chuyển về phía trước trong sự quan tâm đó. Quan trọng không kém là đà khởi động trên một phần của cả hai quốc gia.

Vì vậy, như là một đề nghị cuối cùng, chúng tôi kêu gọi cả Hoa Kỳ lẫn Nhật Bản chứng minh cam kết của họ đối với Liên minh Mỹ-Nhật Bản bằng cách bổ nhiệm một người điều khiển chính sách chỉ tận tâm dành riêng cho sự tiến bộ của nó. Liên minh xứng đáng và cần thiết với sự chú ý này.

Những người tham gia nhóm nghiên cứu.

Các cá nhân sau đây tham gia vào quá trình nhóm nghiên cứu thông qua đó báo cáo đã được xuất bản. Tiến sĩ Nye và ông Armitage biết ơn đối với những nỗ lực khó khăn và sự hỗ trợ từ những người tham gia nhóm nghiên cứu .

Những người tham gia nhóm nghiên cứu :
_ David Asher, Thành viên cao cấp không thường trực, thuộc Trung tâm An ninh Mỹ mới.
_ Kara L. Bue, Đối tác, Armitage quốc tế.
_ Victor Cha, Cố vấn Cao cấp và Chủ tịch Hàn Quốc, CSIS, giáo sư Khoa Quản Trị và là Giám đốc Nghiên cứu châu Á, Đại học Georgetown
_ Michael Green, Cố vấn Cao cấp và Chủ tịch Nhật Bản, CSIS, Phó Giáo sư, Đại học Georgetown.
_ Robert McNally, Chủ tịch và người sáng lập, Tập đoàn Rapidan
_ Isabella Mroczkowski (Báo cáo viên) Trợ lý nghiên cứu, Viện Project 2049
_ Kevin G. Nealer, Hiệu trưởng và là đối tác, Nhóm Scowcroft
_ Torkel Patterson, Chủ tịch, Maglev Hoa Kỳ-Nhật Bản , LLC
_ Robin Sak Sakoda, Đối tác, Armitage quốc tế.
_ Randall Schriver, Đối tác, Armitage International, và Chủ tịch đồng thời là Giám đốc điều hành Viện Project 2049.



Chú Thích
7. Báo cáo của Ủy ban Yanai năm 2006, ghi chú rằng thủ tướng có thể bằng sắc lệnh đặt qua một bên những điều cấm thứ IX, như trong những nỗ lực chống cướp biển ở Djibouti.

1    2

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.