Vẽ một đường trên Biển Đông : Tại sao Bắc Kinh cần phải thận trọng.


Lập trường quyết đoán hơn của Bắc Kinh về các tranh chấp hàng hải tại Biển Biển Đông trong những năm gần đây có thể báo hiệu nỗ lực giai đoạn đầu của Trung Quốc để giành quyền bá chủ khu vực Châu Á-Thái Bình Dương từ Mỹ. Để cho các vụ tranh chấp được giải quyết một cách hòa bình và để cho Mỹ và Trung Quốc tránh được xung đột, ASEAN phải duy trì sự thống nhất, trong khi Mỹ vẫn phải duy trì những gì đã cam kết.

Nguyễn Mạnh Hùng. Tháng Mười Hai, 2012. Theo Global Asian

BHM Lược dịch.

Tranh chấp hàng hải ở Biển Đông đã là chủ đề chính của các cuộc thảo luận tại rất nhiều hội nghị của các quan chức và các học viện trong vòng ba năm qua. Chủ đề liên quan chặt chẽ đến tự do hàng hải, an ninh hàng hải và tuyên bố chủ quyền lãnh thổ, xung đột giữa Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Cuộc xung đột đang bị thúc đẩy bởi các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông và các nỗ lực quyết đoán của nó để thực thi những tuyên bố. Tất cả các quốc gia liên hệ khác nhìn thấy hành động của Trung Quốc là quá đáng và không phù hợp với luật pháp quốc tế.

Xung đột ở Biển Đông có thể được nhìn thấy từ nhiều quan điểm. Ở cấp độ khu vực, nó là một cuộc xung đột của các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia ven biển khác nhau. Ở cấp quốc tế, nó là một cuộc xung đột lợi ích giữa Trung Quốc, một quyền lực khu vực đang nổi lên qua đó muốn thiết lập sự thống trị của mình trong Biển Đông, và các cường quốc lớn khác -- Hoa Kỳ, Nhật Bản và Ấn Độ -- đang quan tâm về tự do hàng hải trong một tuyến đường biển quan trọng. Ở mức hệ thống, nó là một vấn đề chuyển giao quyền lực và / hoặc dàn xếp và quá trình thích nghi giữa một cường quốc đang lên, Trung Quốc, và một cường quốc nguyên trạng, Hoa Kỳ.

Xung đột khu vực.

Các tranh chấp lãnh thổ liên quan đến hai chuỗi quần đảo: quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Xung đột trên quần đảo Hoàng Sa chỉ liên quan đến Trung Quốc và Việt Nam. Mỗi quốc gia kiểm soát một phần của quần đảo cho đến năm 1974, ngay trước khi kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương, khi Trung Quốc chiếm các đảo còn lại từ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) sau một cuộc giao tranh hải quân ngắn gọn. Việt Nam Cộng Hòa, được biết đến như là miền Nam Việt Nam, ngay lập tức phản đối sự xâm lược của Trung Quốc, tuyên bố sẽ bảo vệ chủ quyền và kêu gọi mọi "người dân yêu chuộng hòa bình và công lý" trên thế giới lên án "Trung Quốc trắng trợn sử dụng vũ lực chống lại một quốc gia độc lập, có chủ quyền" (1). Sau khi kết thúc cuộc chiến năm 1975, phía chiến thắng, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (SRV), tiếp tục tranh cãi về sự chiếm đóng của Trung Quốc và long trọng tuyên bố không bao giờ chấp nhận sự nắm quyền kiểm soát như là một việc đã rồi.

Xung đột trên quần đảo Trường Sa liên quan đến Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Trong khi Brunei khoanh vùng yêu sách trên một rạn san hô (Louisa Reef), Malaysia chiếm hay kiểm soát bốn hòn đảo, và Philippines chiếm tám. Trong khi đó, Trung Quốc và Việt Nam tuyên bố chủ quyền trên tất cả các đảo, đảo nhỏ, rạn san hô và đảo san hô trong quần đảo Trường Sa.

Trung Quốc không hề hiện diện tại quần đảo Trường Sa mãi cho đến năm 1988, khi nó xử dụng hành động quân sự để buộc Việt Nam rời khỏi rạn san hô Johnson South, dẫn đến cái chết của 64 người lính Việt Nam. Năm 1995, Trung Quốc thiết lập kiểm soát có hiệu quả trên Mischief Reef trong khi đối mặt với các cuộc biểu tình ở Philippines. Từ đó bắt đầu quá trình Trung Quốc mở rộng kiểm soát đối với quần đảo Trường Sa và Biển Đông.



Những mối quan tâm hiện nay về an ninh hàng hải và tự do hàng hải được tập trung vào những tuyên bố mâu thuẫn nhau trên quần đảo Trường Sa. Xung đột bùng lên trong năm 2009 khi Trung Quốc chính thức trình lên Liên Hiệp Quốc một bản đồ có chứa đường chín đoạn khét tiếng của nó -- còn gọi là "đường lưỡi bò" -- tuyên bố chủ quyền trên 80% Biển Đông (xem Hình 1) và bắt đầu khẳng định quyền của họ bằng việc áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương, tịch thu tàu đánh cá và trang thiết bị của người Việt Nam, bắt giữ và ngược đãi ngư dân, đòi tiền phạt nặng nề của ngư dân Việt Nam trước khi thả họ, đe dọa các công ty dầu khí đã ký hợp đồng thăm dò tại các khu vực biển tranh chấp và quấy rối tàu Mỹ bên ngoài giới hạn lãnh hải 12 hải lý. Nếu Trung Quốc thành công trong việc khẳng định tuyên bố của mình, Biển Đông sẽ trở thành một cái hồ của Trung Quốc, và tự do hàng hải có thể bị suy yếu nghiêm trọng.

Việt Nam và Philippines là hai nước lên tiếng phản đối nhiều nhất về sự quyết đoán của Trung Quốc. Bế tắc gần đây giữa tàu thuyền Philippines và một số lượng tàu Trung Quốc lớn hơn nhiều trên Đảo ngầm Scarborough -- cách Vịnh Subic 123 dặm, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, cách đảo Hải Nam 500 dặm, nhưng trong đường lưỡi bò của Trung Quốc -- đã dẫn Philippines dựa vào hoạt động ngoại giao, đưa vấn đề thu hút sự chú ý của Liên Hiệp Quốc, và viện dẫn Hiệp ước Liên minh hổ tương Hoa Kỳ - Philippines để mong chờ sự bảo vệ (2).

Đối với Việt Nam, kiểm soát toàn bộ Biển Đông bởi Trung Quốc là không thể chấp nhận được. Trong nhiều thế kỷ, người Việt Nam đã thể hiện niềm tự hào qua vị trí địa lý của đất nước như là một "bao lơn nhìn ra Thái Bìng Dương". Mất kiểm soát những hòn đảo sẽ đặt Việt Nam thực sự ở trên bờ hồ của Trung Quốc, cắt giảm tiềm năng tăng trưởng và bắt buộc nó sống vĩnh viễn dưới chiếc bóng Trung quốc (3). Trong một dấu hiệu cho thấy tình hình biến động như thế nào là, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã tuyên bố sẽ bảo vệ chủ quyền của Việt Nam bằng mọi giá. Nỗ lực gần đây nhất để xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam được thể hiện bằng việc Trung Quốc đưa ra lời mời các công ty dầu mỏ nước ngoài thăm dò chín lô dầu và khí đốt trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (xem hình 2).

Trong khi cả Việt Nam và Philippines thích giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán đa phương và đã cố gắng tranh thủ sự hỗ trợ từ các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế, Trung Quốc khăng khăng đòi đàm phán song phương và đã phải viện đến một cách tiếp cận "chia rẻ và chinh phục" để làm suy yếu sự của đoàn kết của ASEAN .

Xung đột quốc tế.

Vào năm 2009-2010, sự căng thẳng cao độ giữa Trung Quốc và các bên yêu sách của ASEAN trên các hòn đảo tranh chấp dẫn đến việc quốc tế hóa sự xung đột, với Mỹ và các cường quốc khác bắt đầu thể hiện một quan điểm về các tranh chấp. Đó là điều dễ hiểu, vì Biển Đông là tuyến đường biển bận rộn đứng thứ nhì của thế giới, với hơn một nửa số tàu chở dầu thượng hạng của thế giới và 5,3 nghìn tỷ $ trong thương mại hàng năm đi qua khu vực ( một mình thương mại Mỹ chiếm 1,2 nghìn tỷ $ trong con số đó). Quan tâm về tuyên bố và hành động quyết đoán của Trung Quốc, cùng với sự thiếu minh bạch trong chương trình hiện đại hóa quân sự của nó, đã tạo ra một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực Đông Nam Á và gây ra những phản ứng mạnh mẽ từ các cường quốc lớn lo lắng về tình hình. Về phần mình, Ấn Độ và Nhật Bản cũng lo ngại về tự do hàng hải. Cả hai nước đã ủng hộ giải pháp hòa bình trong các tranh chấp, nhưng cũng đã tăng cường sự hiện diện ngoại giao, kinh tế và hải quân của họ trong khu vực. Mỹ, trong khi đó, ở giữa một chính sách xoay trục hướng đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương, cam kết 60% phương tiện chiến tranh của hải quân đi vào Thái Bình Dương, và hành động để tăng cường và hiện đại hóa "liên minh lịch sử" với Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Philippines và Thái Lan, cũng như xây dựng "quan hệ đối tác mạnh mẽ" trong suốt khu vực (4). Nga cũng đã bắt đầu lên tiếng quan ngại về vấn đề tự do hàng hải và "sự can thiệp bên ngoài" ở Biển Đông.

Tháng 5 năm 2009, là thời hạn cuối cùng cho các bên tuyên bố giải quyết vấn đề dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) , Trung Quốc buộc phải lộ con bài của mình trên bàn và Bắc Kinh chính thức trình bày bản đồ có đường lưỡi bò của nó, tuyên bố kiểm soát hơn 80% Biển Biển Đông và xâm lấn vào các lãnh thổ được tuyên bố chủ quyền bởi các nước Đông Nam Á khác. Gần như ngay lập tức, Thượng viện Mỹ đã tổ chức nghe điều trần về biển Đông và trong tháng Sáu đã nhất trí thông qua một nghị quyết "lên án việc Trung Quốc sử dụng vũ lực ở Biển Đông và ủng hộ việc tiếp tục các hoạt động của lực lượng vũ trang Mỹ trong việc hỗ trợ quyền tự do hải hành trên vùng biển và không phận quốc tế ở Biển Đông".

Trong tháng 6 năm 2010, tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore, trao đổi sôi nổi về Biển Đông đã diễn ra giữa Trung Quốc và Mỹ, cùng với sự tham gia của các nước ASEAN khác. Một tháng trước đó, tại các Đối thoại chiến lược và kinh tế giữa Mỹ và Trung Quốc ở Bắc Kinh, các quan chức Trung Quốc, trong một động thái được xem như nâng cao các cá cược trong cuộc xung đột, tuyên bố yêu sách của nước này ở biển Đông là "lợi ích cốt lõi" (5). Giới chóp bu có ảnh hưởng ở Trung Quốc xem Biển Đông là "lãnh thổ xanh" -- đó là, như một phần của lãnh thổ có chủ quyền của Trung Quốc giống như Tây Tạng, Tân Cương hay Đài Loan (6). Phản ứng của Mỹ nổ ra trong hình thức một bài phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tại Diển đàn khu vực ASEAN (ARF) ở Hà Nội vào tháng Bảy, trong đó bà đã phát biểu rõ ràng rằng "Hoa Kỳ có một lợi ích quốc gia trong tự do hàng hải, tiếp cận mở đến hàng hải chung của châu Á và sự tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông". Đặc biệt, sự hiểu biết của Mỹ và Trung Quốc về "tự do hàng hải " thì khác nhau. Mỹ tin rằng nó bao gồm các quyền tiến hành tập trận quân sự và thu thập thông tin tình báo và các dữ liệu quân sự hữu ích, trong khi Trung Quốc muốn các tàu hải quân và máy bay nước ngoài tìm kiếm sự cho phép của Trung Quốc trước khi bước vào "vùng biển nội thủy" ở biển Đông (7).

Kể từ khi các xung đột lợi ích quốc gia giữa các cường quốc lớn trên thế giới có thể dễ dàng dẫn đến ma sát và chiến tranh, những căng thẳng leo thang giữa Trung Quốc và Mỹ trong những tranh chấp hàng hải chắc chắn là một mối quan ngại lớn.

Xung đột hệ thống

Từ quan điểm hệ thống, cuộc xung đột Mỹ-Trung trên Biển Đông có thể được xem như là cuộc xung đột giữa một cường quốc đang lên và một sức mạnh hiện trạng. Trong nhiều thập kỷ, Mỹ, thông qua Hạm đội Bảy và Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của nó, là sức mạnh hải quân không thể tranh cãi tại Thái Bình Dương. Sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam trong những năm 1970 và sự tham gia sau này trong các cuộc chiến tranh ở Afghanistan và Iraq đã làm thay đổi tình hình. Trong khi Mỹ giảm sự hiện diện quân sự của mình ở châu Á và đã sa lầy trong 2 cuộc chiến tranh tốn kém và làm cho kiệt sức, nền kinh tế của Trung Quốc đã được phát triển và chương trình hiện đại hóa quân sự của nó đã đạt được đà; Bắc Kinh, kết quả là, đã trở thành một quyền lực khu vực chi phối kinh tế, chính trị và quân sự. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc khởi hành từ câu châm ngôn nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình "ẩn mình chờ thời, giỏi che thực lực", và bắt đầu thể hiện sức mạnh của Trung Quốc, đặc biệt là trên Biển Đông.

Trung Quốc khẳng định "quyền lịch sử" của mình để yêu sách vùng biển là yếu và không phù hợp với, hoặc là UNCLOS hay là luật pháp quốc tế. Những gì Trung Quốc đã và đang làm đại diện cho không có gì hơn là một nỗ lực để viết lại luật pháp quốc tế và áp đặt ý chí của nó trên khu vực, nhào nặn thực tại chính trị toàn cầu và gây ảnh hưởng đến "những quy tắc lộ trình" đối với trật tự quốc tế (8). Hoa Kỳ, trong cả lời nói và việc làm, đã báo hiệu rằng nó không chấp nhận điều này. Mỹ đã tăng cường sự hiện diện quân sự của mình ở châu Á, hồi sinh mối quan hệ chiến lược với các đồng minh cũ và giúp cải thiện khả năng phòng thủ của các nước nhỏ trong khu vực. Trong tháng 7 năm 2012, khi Trung Quốc lập ra thành phố cấp quận Tam Sa, một hòn đảo nhỏ ở Biển Đông, và thành lập một đơn vị đồn trú quân sự để "thực hiện chủ quyền đối với tất cả các tính năng đất bên trong Biển Đông", Bộ Ngoại giao Mỹ đã phản ứng bằng cách công khai tố cáo hành động của Trung Quốc là "chống lại các nỗ lực ngoại giao có tính hợp tác để giải quyết sự khác biệt và nguy cơ căng thẳng tiếp tục leo thang trong khu vực", trong khi Nghị sĩ Howard Berman, một thành viên hàng đầu trong Ủy ban Quan hệ đối ngoại của Quốc Hội, khẳng định rằng chính quyền của Tổng thống Barack Obama đã "lặp đi lặp lại rõ ràng đến Bắc Kinh rằng Mỹ sẽ không cho phép Trung Quốc khẳng định quyền bá chủ trên toàn khu vực" (9).

Xung đột lợi ích giữa các cường quốc đang lên và các cường quốc hiện có đã tăng tốc những cuộc chạy đua vũ khí và đã dẫn đến chiến tranh. Câu hỏi quan trọng là, chiều hướng va chạm như vậy có thể được thay đổi hay không, và những xung đột chính giữa hai cường quốc có thể được giải quyết hay không?

Có thể chấm dứt các cuộc chơi

Có một số kịch bản có thể giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Đầu tiên là Trung Quốc tiết chế các tuyên bố quá mức của nó và hưóng về một thỏa thuận với các quốc gia ven biển khác, với bên thứ ba làm trọng tài xét xử hoặc phân xử nếu cần thiết, dựa trên luật pháp quốc tế công nhận về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Trước khi thông qua đường chín đoạn, Trung Quốc đã vẻ ra một bản đồ với mười một đoạn, hai đoạn trong đó ở trong Vịnh Bắc Việt (10). Tuy nhiên, điều này không ngăn chặn Trung Quốc và Việt Nam đạt được một thỏa thuận về phân định biên giới biển trong vịnh đó. Hơn nữa, các quan chức Trung Quốc đã liên tục phủ nhận rằng Trung Quốc đã chính thức tuyên bố Biển Đông là "lợi ích cốt lõi" của nó, để ngỏ khả năng dẫn đến một sự hiểu biết về các tuyên bố mâu thuẫn nhau. Một số học giả Trung Quốc và các chuyên gia làm việc trong các think tank của chính phủ đã thừa nhận ở chổ riêng tư "bản chất vấn đề chính sách của Trung Quốc ở biển Đông", đặc biệt là về "tình trạng của đường chín đoạn". Những nhà phân tích và các nhà tư tưởng chiến lược đã bày tỏ mối quan tâm rằng tình hình căng thẳng ở Biển Đông có thể làm chệch mục tiêu "tiến trình cải cách" của Trung Quốc (11). Điều này để lại cánh cửa mở để thảo luận và cung cấp không gian trong đó Trung Quốc có thể xem xét những nhượng bộ mà qua đó có thể sẽ tránh được cho Trung Quốc và các nước láng giềng Đông Nam Á của nó không bị lôi kéo vào một cuộc xung đột qua một chủ đề kéo dài từ các tuyên bố quá mức của Trung Quốc.

Kịch bản thứ hai là viển cảnh trong đó Trung Quốc, lợi dụng sự khác biệt về sức mạnh giữa nó và các bên tranh chấp đối thủ khác, dựa trên sự kết hợp của các hành động đơn phương, chính sách "bên bờ vực chiến tranh", những tiến bộ từng phần và chiến thuật "chia rẻ-và-chinh phục" để dần dần và dần dần thiết lập kiểm soát thực tế vùng biển trong đường lưỡi bò. Bế tắc giữa Trung Quốc và Philippines tại bãi ngầm Scarborough là một ví dụ hoàn hảo của kịch bản này mà qua đó kịch bản thứ hai này có thể mở ra như thế nào.

Bế tắc ở bãi ngầm Scarborough bắt đầu từ tháng 5 năm 2012 khi một tàu khu trục Hải quân Philippines được gửi đến điều tra khu vực và đáp lên thuyền đánh cá của Trung Quốc ở trong khu vực được tuyên bố thuộc về vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Trung Quốc phản ứng bằng cách gửi hai tàu Hải giám không vũ trang của Trung Quốc xen vào giữa các tàu khu trục nhỏ và thuyền đánh cá và dẫn họ trốn thoát. Cả hai bên đều gửi quân tiếp viện. Ở cao điểm của sự bế tắc, đã có một ít tàu Philippines phải đối mặt với gần 100 tàu của Trung Quốc. Đối mặt với số lượng áp đảo của các tàu Trung Quốc và không có sự hỗ trợ quốc tế, Philippines đã phải thi hành một thỏa thuận, trong đó cả hai bên rút tàu của họ. Tuy nhiên, sau khi tất cả các tàu thuyền Philippines đã rút lui, Trung Quốc đã phong tỏa lối vào bãi cát ngầm, thiết lập kiểm soát có hiệu quả của nó trên thực tế trong vùng tranh chấp. Với việc đã rồi đó, một hiện trạng mới ủng hộ Trung Quốc đã được thành lập. Chiến thuật dựa vào áp lực cấp thấp này để tạo ra một loạt các "sự kiện" mới có thể dẫn đến những gì mà Toshi Yoshihara gọi là "mệt mỏi chiến lược", qua đó có thể, trong thời gian dài, làm suy yếu sự phản kháng của các bên yêu sách đối thủ và dẫn đến một sự chấp nhận miễn cưỡng các tuyên bố của Trung quốc từ Hoa Kỳ (12). Nếu đạt được điều này, Trung Quốc sẽ kiểm soát có hiệu quả về hàng hải ở Biển Đông và có thể sai khiến vìệc sử dụng tuyến thông tin đường biển quan trọng đó.

Cách tiếp cận này đã bị chống lại bởi các nước ASEAN tranh chấp và các cường quốc quan trọng khác đang chia sẻ Thái Bình Dương. Thành công hay thất bại của nó sẽ phụ thuộc vào hai điều :

  1. Liệu Trung Quốc có thành công hay không trong phương pháp tiếp cận "chia rẻ-và-chinh phục" đối với ASEAN; và

  2. Liệu ASEAN có thể tập trung được hay không quyết tâm và khả năng để hành động với một mặt trận thống nhất chống lại áp lực của Trung Quốc và kéo theo các cường quốc khác, đặc biệt là Mỹ.


Phương pháp tiếp cận quyết đoán hiện nay của Trung Quốc đã gây ra ma sát và căng thẳng, và nếu không kềm chế, có thể dẫn đến những xung đột quân sự (13). Về lâu dài, nó sẽ đẩy nhiều nước châu Á gần gũi hơn với Hoa Kỳ và có thể dẫn đến một loại Chiến tranh Lạnh và ngăn chặn mới, bóc tách một khối các quốc gia hỗ trợ tầm nhìn của Mỹ về một trật tự khu vực châu Á chống lại một nhóm hỗ trợ tầm nhìn của Trung Quốc về một trật tự khu vực châu Á. Kịch bản này là một cơn ác mộng đối với các nước Đông Nam Á đã làm việc rất chăm chỉ để tăng cường đoàn kết ASEAN và thúc đẩy các khái niệm về vai trò trung tâm của ASEAN, để tránh bị kẹt trong cuộc đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc.

Kịch bản thứ ba là Trung Quốc đạt đến một quá trình thích nghi với Mỹ, dựa trên sự công nhận của Mỹ về Trung Quốc như là một nhà lãnh đạo không thể tranh cãi ở Biển Đông, và quá trình chuyển đổi hòa bình của lãnh đạo trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương từ Mỹ sang Trung Quốc xuất hiện. Nếu điều này xảy ra, nó sẽ làm đảo lộn tất cả các quốc gia châu Á khác, lớn và nhỏ, nhưng một khi người Mỹ bắt đầu quá trình thích nghỉ, các quốc gia khác chỉ đơn giản là sẽ phải đứng chung cùng một phòng tuyến. Quá trình này, tuy nhiên, sẽ là nguy hiểm trên toàn cầu và khu vực.

Trung Quốc sẽ dừng lại ở đâu ?

Không có sự bảo đảm, tuy nhiên, nếu Trung Quốc thống trị Á Châu, "cô ấy" sẽ dừng lại ở đó. Để đáp ứng với thực tế của một Trung Quốc nổi lên một cách ngoạn mục và một nước Mỹ bị gánh nặng với các vấn đề kinh tế và một chính phủ rối loạn chức năng, các học giả như Adam Quinn đã tập trung vào sự khởi đầu của một quá trình chuyển đổi quyền lực từ Mỹ, suy giảm sức mạnh, đến Trung Quốc, quyền lực đang gia tăng (14). Các nhà tư tưởng chiến lược của Trung Quốc đã không bỏ lỡ khả năng rằng cuộc thi hiện tại trên Biển Đông có thể đại diện cho các bước đầu tiên hướng tới sự chuyển đổi này. Ding Gang, một biên tập viên của tờ "nhân dân hàng ngày" của Đảng Cộng sản, nhận xét: "Hiện vẫn chưa biết Mỹ có hay không có kế hoạch đưa vào nguồn nhân lực và các nguồn lực tài chính lớn như nhau khi Trung Quốc xen vào khu vực này một cách vỏ đoán. Rất có khả năng rằng Mỹ thiếu động lực để làm điều này trong thời gian dài. Và Trung Quốc có thể trở thành sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự mạnh nhất ở châu Á " (15).

Vấn đề với kịch bản này là nó bỏ qua quy mô mà hai cầu thủ quan trọng tham gia trong quá trình chuyển đổi này -- Trung Quốc và Mỹ -- là các chế độ đại diện cho tầm nhìn không tương thích về tương lai của khu vực và thế giới. Một quá trình chuyển đổi quyền lực một cách hòa bình đã diễn ra từ Đế quốc Anh đến Đế quốc Mỹ, chủ yếu vì nó là trường hợp của một nền dân chủ thay thế một nền dân chủ khác, các vai trò kinh doanh, như các lính gác cho các lợi ích chung trong khu vực. Nước Anh đã sẵn sàng từ bỏ sự thống trị của họ và bảo đảm rằng, với một nền dân chủ nắm quyền lãnh đạo, an ninh và hạnh phúc của nó không bị đe dọa. Tuy nhiên, các cuộc đụng độ giữa các cường quốc xét lại phi dân chủ (Đức, Ý và Nhật Bản) và các cường quốc dân chủ đã dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai trong những năm 1930.

Với khu vực, kịch bản này sẽ là điều không mong muốn cho các nước ASEAN nhỏ hơn và không có khả năng xảy ra khi Mỹ có khả năng và quyết tâm duy trì uy quyền của mình trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, một quyết định đã được trình bày lại một cách mạnh mẽ bởi các nhà lãnh đạo Mỹ, từ tổng thống đến các bộ trưởng quốc phòng, ngoại giao, cũng như của các thành viên hàng đầu của quốc hội (16 ). Aaron Friedberg chỉ ra rằng khoảng cách ý thức hệ giữa Trung Quốc và Mỹ là quá lớn và mức độ tín nhiệm thì quá thấp để tạo điều kiện thuận lợi cho một quá trình thích nghi. Ông đã nói rỏ trường hợp đó, mục tiêu cuối cùng của Trung Quốc bá quyền khu vực sẽ chạy ngược vào Mỹ: (17) "chiến lược lớn, đã không thay đổi trong nhiều thập kỷ là để ngăn chặn sự thống trị đầu này hay đầu kia của đại lục Á-Âu bởi một hoặc nhiều cường quốc thù địch tiềm tàng."

Tìm kiếm một giải pháp công bằng và bền vững.

Bất kỳ giải pháp thực tế nào cho cuộc xung đột Biển Đông phải đưa vào vấn đề 3 yếu tố chính:
  1. Xác định Trung Quốc có một ưu thế, nếu không vượt trội, thì đó là một cầu thủ ở châu Á;
  2. Xác định việc Mỹ duy trì uy quyền tối cao của hải quân và hệ thống sắp xếp an ninh của nó trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương và
  3. Hầu hết, nếu không phải tất cả, các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á không muốn sống dưới một trật tự khu vực của Trung Quốc, và cũng không muốn bị buộc phải đứng về phía nào trong sự ganh đua giữa Trung Quốc và Mỹ.


Trong khi sẽ mất nhiều năm hoặc thậm chí nhiều thế hệ để đạt được một giải pháp cuối cùng cho cuộc xung đột ở Biển Đông, có một nhu cầu ngay lập tức là xoa dịu căng thẳng và ngăn chặn các cuộc xung đột dẫn đến đối đầu quân sự. Theo hướng này, ASEAN đã thúc đẩy, với sự thành công không nhiều, một hệ thống dựa trên luật lệ xây dựng chung quanh việc tuân thủ nghiêm ngặt Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), được thông qua vào năm 2002, và Kế hoạch Hành động Thực hiện Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược vì Hòa bình và Thịnh vượng ASEAN-Trung Quốc (2011-2015), được thoả thuận trong năm 2010. Sau thất bại ngoạn mục của Hội nghị thượng đỉnh ASEAN tháng 7 năm 2012 để có một thông cáo chung trong đó có đề cập đến sự cố bãi ngầm Scarborough , Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia, Marty Natalegawa, đi du lịch đến một số thủ đô để thuyết phục các đồng nghiệp của mình đồng ý về một giải pháp "giử thể diện". Những nỗ lực của ông đã được tưởng thưởng bằng một thỏa thuận trên sáu nguyên tắc "Quan điểm chung của ASEAN" trên Biển Đông. Tuy nhiên, ASEAN vẫn còn làm việc để đi đến một thỏa thuận với Trung Quốc về một Bộ Quy tắc ứng xử ràng buộc hơn.

Kể từ khi ASEAN cũng như Mỹ không chấp nhận khiếu nại hàng hải quá đáng của Trung Quốc , giải pháp công bằng, dài hạn cho cuộc xung đột Biển Đông phải bắt đầu với việc Trung Quốc rút lại yêu sách đường lưỡi bò và sẵn sàng tuân thủ luật pháp quốc tế. Các giải pháp phải là kết quả của ngoại giao đa phương công nhận vai trò quan trọng đối với Trung Quốc, trong khi đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia nhỏ hơn được hỗ trợ bởi một sự cân bằng quyền lực ở Biển Đông mà không ũng hộ cho tầm nhìn một trật tự khu vực châu Á của Trung Quốc.

Một giải pháp công bằng và bền vững cho cuộc xung đột ở Biển Đông dựa trên ba yếu tố củng cố lẫn nhau và phụ thuộc lẫn nhau : kềm chế Trung Quốc, đoàn kết ASEAN , và cam kết của Mỹ. Một ASEAN vững mạnh và đoàn kết là thành phần quan trọng nhất trong phương trình này. ASEAN đoàn kết trao quyền cho các nước trong khu vực và cung cấp cho họ lợi thế về khả năng thương lượng tập thể. Nó có thể giúp ngăn chặn hành vi hung hăng của Trung Quốc và khuyến khích sự tham gia tiếp tục của Hoa Kỳ là một yếu tố ổn định.

Nhưng sự thất bại của ASEAN để hỗ trợ Philippines trong sự kiện Scarborough tháng Năm năm ngoái, thất bại đáng kể tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN tháng 7 năm 2012 trong việc đồng ý về một thông cáo chung và cố gắng yếu ớt để tạo thành một mặt trận chung ASEAN, cũng như gần như không thể với tới một quy tắc tắc ứng xử khả thi ở Biển Đông, làm suy yếu nghiêm trọng triển vọng của ASEAN trở thành một bộ đệm rất cần thiết giữa Mỹ và Trung Quốc. Nó cũng phóng đại khả năng xảy ra xung đột trực tiếp giữa "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc và "lợi ích quốc gia" của nước Mỹ ở Biển Đông.

Những ưu tư Chiến tranh Lạnh

Trong chuyến thăm của Ngoại trưởng Clinton đến Trung Quốc vào tháng Chín năm 2012, các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ cần tôn trọng khái niệm "toàn vẹn lãnh thổ" mở rộng và ngừng can thiệp vào tranh chấp Biển Đông. Điều này tương đương với yêu cầu Mỹ từ bỏ vai trò của nó như là người chơi thống trị trong Biển Đông. Nếu Mỹ rút lui, ASEAN sẽ bị buộc phải chấp nhận Trung Quốc, và ảnh hưởng và uy tín của Mỹ trong khu vực sẽ bị giảm đi rất nhiều.

Mỹ không đồng ý đóng vai phụ thuộc Trung Quốc trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Nếu ASEAN không đoàn kết và tiến tới một giải pháp thuận với Trung Quốc, Mỹ sẽ không còn lựa chọn nào hơn là sự ngăn chặn. Nỗ lực của Trung Quốc để làm suy yếu sự gắn kết của ASEAN để đẩy người Mỹ khỏi cuộc chơi có thể có hậu quả không lường là sự cô lập Trung Quốc và gây ra sự ngăn chặn theo phong cách chiến tranh lạnh.

Chiến tranh Lạnh mới, nếu nó xảy ra, sẽ không quá căng thẳng và không có khả năng tận thế như thời kỳ đã được mô tả, ví dụ, bởi cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Nó sẽ giống nhiều hơn như thời kỳ lắng dịu giữa Mỹ và Liên Xô trước đây, khi cả hai "đối đầu / cạnh tranh" và "hợp tác" diễn ra giữa hai nhân vật chính quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và phụ thuộc lẫn nhau. Nhưng nó vẫn có thể dẫn đến một cuộc đối đầu trực tiếp giữa các liên minh quân sự đối địch, một cuộc đấu tranh để xác định các lĩnh vực ảnh hưởng và sắp xếp quân sự ở châu Á, tất cả đều sẽ là một thực tế khó chịu đối với các nước ASEAN nhỏ hơn.

Càng sớm càng tốt cần tránh nguy cơ chiến tranh lạnh mới này được công nhận và tiến hành. Nếu Mỹ muốn duy trì ảnh hưởng và uy tín của mình ở châu Á và không muốn bị đẩy ra khỏi Biển Đông, nó phải đứng vững và tìm cách giúp ASEAN ngăn chặn Trung Quốc bày ra những việc đã rồi nhiều hơn nữa. Nếu các nước ASEAN không muốn bị kẹt trong cuộc đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc, họ phải hành động cùng nhau như một nhóm thống nhất, và nhanh chóng. Nếu Trung Quốc không muốn bị cô lập và kềm chế, nó phải thay đổi các đòi hỏi quá đáng của mình và đóng góp nghiêm túc trong việc quản lý xung đột ở Biển Đông một cách hòa bình.

Nguyễn Mạnh Hùng là phó giáo sư khoa quản trị và chính trị quốc tế, và là trợ lý của Trung tâm nghiên cứu toàn cầu, Đại học George Mason. Ông muốn cảm ơn Tiến sĩ Lew Stern, Đại học James Madison, trước các ý kiến ​​và phê bình giá trị của ông. Tác giả, tuy nhiên, hoàn toàn chịu trách nhiệm cho các sự kiện và ý kiến được trình bày trong bài viết này.

XEM GHI CHÚ Ở ĐÂY.


BHM Lược dịch. © 2012 BOHEMIENVN

Trang Chủ


Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.