Quan hệ đối tác chiến lược Việt - Mỹ thực sự nghĩa là gì?
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
Nhìn kỹ hơn về tầm quan trọng của việc thiết kế lại tiềm năng của mối quan hệ song phương. Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump phát biểu trong ngày cuối cùng của Hội nghị cấp cao CEO APEC, một phần của hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) rộng lớn hơn, tại thành phố Đà Nẵng, miền trung Việt Nam vào ngày thứ Sáu 10 tháng 11 năm 2017. Các nhà lãnh đạo thế giới và các nhân vật kinh doanh cao cấp tập trung tại thành phố Đà Nẵng của Việt Nam trong tuần này cho hội nghị thượng đỉnh APEC hàng năm gồm 21 thành viên. (Anthony Wallace, Bi-a qua AP) …Image Credit : AP PhotoPrashanth Parameswaran Ngày 12 tháng 9 năm 2019 Theo The Diplomat Trần H Sa lược dịch. Vài tháng qua, trong bối cảnh các cam kết cấp cao đã được lên kế hoạch, đã có nhiều thảo luận về tiềm năng chính thức nâng cao tình trạng quan hệ Mỹ-Việt lên mức độ quan hệ đối tác chiến lược trong tương lai. Trong khi ý tưởng này còn quá mới, tác động của nó đáng được quan tâm cẩn thận, cả về mối quan hệ song phương cũng như sự phát triển khu vực và quốc tế rộng lớn hơn. Quan hệ Mỹ-Việt đã đi khá xa so với nơi mà họ từng có trong Chiến tranh Việt Nam. Trong khi việc bình thường hóa dần dần các mối quan hệ đã diễn ra trong nhiệm kỳ của cựu Tổng thống Bill Clinton và tiếp tục với các chính quyền Dân chủ và Cộng hòa tiếp theo, điều đặc biệt đáng lưu ý là việc nâng cao mối quan hệ lên mức hợp tác toàn diện vào năm 2015 dưới thời Tổng thống Barack Obama. Như tôi đã lưu ý trước đây ở nơi này và những nơi khác, việc thiết kế lại này rất có ý nghĩa đối với các cộng đồng hoạch định chính sách của cả hai nước: Nó phản ánh những nỗ lực của Washington trong việc mở rộng mạng lưới liên minh và quan hệ đối tác ở châu Á-Thái Bình Dương, và vai trò quan trọng của Việt Nam ngày càng tăng trong mạng lưới đó, cùng với các đối tác toàn diện khác như Malaysia và Indonesia (mà sau đó được nâng lên thành đối tác chiến lược); và nó cũng nhấn mạnh những cơ hội và thách thức mà Hà Nội phải cân nhắc khi nước này gắn kết với Hoa Kỳ trong hệ thống quan hệ đối tác rộng lớn hơn. Giữa sự kết hợp của những lần đầu tiên đáng chú ý và những thách thức mới, dưới thời chính quyền Trump cho đến nay - với những phát triển hàng đầu bao gồm chuyến thăm đầu tiên của tàu sân bay Hoa Kỳ đến Việt Nam để nghiên cứu cẩn thận sự cân bằng thương mại Việt-Mỹ - đã có cuộc nói chuyện về tiềm năng nâng cao mối quan hệ Mỹ-Việt lên quan hệ đối tác chiến lược. Điều này đã xảy ra trong kế hoạch tham gia cấp cao, đáng chú ý nhất là chuyến thăm Hoa Kỳ có thể xảy ra của người đứng đầu đảng Cộng sản Việt Nam và là chủ tịch, Nguyễn Phú Trọng, sau chuyến đi đầu tiên của ông ta tới Washington vào năm 2015: bản chất của nó là một sự phát triển lịch sử cho quan hệ Mỹ-Việt. Nói về sự chuyển hướng thì đúng là huyên thuyên, còn lâu mới gây được sự ngạc nhiên. Trong khi bản thân sự phát triển có thể không gây ấn tượng sâu sắc như các tiêu đề trông đợi có thể được đề xuất - chẳng hạn, Indonesia đã trải qua một quá trình tương tự để tạo nên mối quan hệ đối tác toàn diện, sau đó được nâng lên thành quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ - không phải là không có ý nghĩa. Với các di sản lịch sử của quan hệ Mỹ-Việt và kéo dài sự khác biệt đó đến hiện nay, trên các lĩnh vực từ thể loại chế độ cho đến nhân quyền, một sự nâng cao ở loại hình này sẽ củng cố sự hội tụ chiến lược ngày càng tăng giữa hai nước với nhau, cũng như cho các cơ quan, công chúng và các quốc gia khu vực khác. Việc định danh mối quan hệ cũng có thể có ý nghĩa rộng lớn hơn, nằm ngoài bản thân mối quan hệ song phương, và ở trong môi trường cạnh tranh Mỹ - Trung ngày càng tăng ở châu Á - Thái bình dương, và vai trò của Việt Nam trong các vấn đề khu vực, chẳng hạn như biển Đông, nơi mà sự quyết đoán và sự kiểm soát của Trung Quốc có xu hướng ngày càng tăng, còn lâu mới giảm đi, và Hà Nội phải chịu áp lực ngày càng tăng. Nhưng các cuộc thảo luận về một việc định danh như vậy không phải là không có mối quan tâm chung của họ. Một mặt, quan sát sự khác biệt cụ thể trong quan hệ Mỹ-Việt qua vấn đề thương mại hoặc Bắc Triều Tiên trong vài năm qua, sẽ thấy đôi khi các vấn đề đó khiến việc xử lý mối quan hệ có vẻ kém toàn diện - chứ đừng nói đến chiến lược - ngoài việc thực tế địa chính trị sẽ cho thấy nó đang đẩy Mỹ-Việt rời xa nhau. Mặt khác, bối cảnh khu vực và quốc tế cũng tăng cường sự xem xét kỷ lưởng về những liên kết giả mạo, tuy nhiên, hiện tượng lỏng lẻo giữa các quốc gia hoặc Hoa Kỳ hoặc Trung Quốc, tạo nên những sáng kiến như chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương Tự do và Mở rộng, lần đầu tiên công khai phát biểu trong bài phát biểu của Trump tại Hội nghị cấp cao APEC ở Việt Nam năm 2017, hoặc báo cáo các cơ sở quốc phòng mới. Những yếu tố này quan trọng bởi vì chúng sẽ đóng vai trò trong các tính toán mà các nhà hoạch định chính sách phải xem xét về chi phí và lợi ích của việc chuyển đổi liên kết nói chung, cũng như nhiều khía cạnh cụ thể hơn như hệ thống múi giờ và hệ thống gửi tin nhắn. Chẳng hạn, không phải ngẫu nhiên mà chúng ta thấy Việt Nam trì hoãn một số bước tiến liên quan đến quốc phòng với Hoa Kỳ, bất chấp những lợi ích mà chúng ta đã thấy, ngay cả khi nó cũng tạo ra những bước tiến mới trong các mối quan hệ quan trọng khác như với Liên minh châu Âu và Nhật Bản. Những lo ngại này không có nghĩa là mối quan hệ đối tác chiến lược Mỹ-Việt là không mong muốn hoặc không thể thực hiện được. Thật vậy, như đã đề cập ngay từ đầu, bất chấp những thăng trầm của mối quan hệ song phương, các xu hướng chiến lược như ngày nay đang khiến Washington và Hà Nội hướng tới sự liên kết lớn hơn, không ít hơn, bất kể cái tên được gọi công khai là gì. Nhưng điều đó có nghĩa là cả Hoa Kỳ và Việt Nam cần bảo đảm rằng, thực tế của mối quan hệ phải phù hợp với bất kỳ danh xưng nào mà họ chọn để áp dụng, khi họ chọn áp dụng nó. Cuối cùng, cái tên của liên kết chỉ có giá trị tương đương với cam kết mà cả hai bên sẵn sàng đầu tư vào việc chuyển đổi sự hội tụ tiềm năng thành hợp tác hiện thực, bằng chứng là sự pha trộn giữa các liên minh cùng các đối tác kém hiệu quả và có hiệu quả ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Mối quan hệ Mỹ-Việt không tránh khỏi những cân nhắc này, và nó sẽ được đánh giá có liên quan đến không chỉ là vấn đề ngày nay Mỹ-Việt đang ở đâu so với quá khứ, mà còn là ở đâu mà cả hai nước có thể và nên cùng nhắm mắt làm ngơ trước những khác biệt vốn vẫn còn tồn tại giữa họ.
Tiến sĩ Prashanth Parameswaran là Biên tập viên cao cấp tại The Diplomat có trụ sở tại Washington, DC, nơi ông đưa ra phân tích về các vấn đề chính trị và an ninh Đông Nam Á, các vấn đề quốc phòng châu Á và chính sách đối ngoại của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương.
Mặc dù khả năng một cuộc xung đột quân sự lớn là thấp, tiềm năng cho một cuộc đụng độ bạo lực trong vùng biển Đông ( biển Nam Trung Hoa ) trong tương lai gần là rất cao, qua hành vi của các quốc gia trong khu vực và cuộc chạy đua ngày càng tăng. Theo Council on Foreign Relations Trần H Sa Lược dịch. Các biện pháp hỗ trợ giảm rủi ro trong quan hệ Mỹ-Trung Các biện pháp hoạt động an toàn và mở rộng hợp tác hải quân giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể giúp giảm nguy cơ của một vụ tai nạn tàu và máy bay. Việc tạo ra các Hiệp định Tư vấn Hàng hải Quân sự (MMCA) năm 1988 được dự định để thiết lập các "quy tắc đường đi " trên biển tương tự như các sự cố quan hệ Mỹ - Liên Xô ở Hiệp định trên biển (INCSEA), nhưng nó đã không được thành công. Cơ chế truyền thông có thể cung cấp một phương tiện để xoa dịu căng thẳng trong một cuộc khủng hoảng và ngăn chặn sự leo thang. Đường dây nóng chính trị và quân sự đã được thiết lập, mặc dù các quan chức Mỹ có ít sự tự tin rằng chúng sẽ đư...
Các cuộc biểu tình ở Hồng Kông đẩy nhanh những mâu thuẫn ở Bắc Kinh. Nhân viên an ninh chụp ảnh với chân dung của Mao sau buổi lễ hội ở Bắc Kinh kỷ niệm 70 năm Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. CreditNg Han Guan/Associated Press Bret Stephens….Ngày 3 tháng 10 năm 2019 Theo New York Times Trần H Sa lược dịch. Vào năm 2001, Gordon Chang, một luật sư người Mỹ đã dành nhiều năm ở Hồng Kông và Thượng Hải, xuất bản một cuốn sách dự báo trước có tựa đề là "Sự sụp đổ của Trung Quốc". Tại thời điểm đó, bài luận văn dường như là bất khả thi, nếu không phải là vô lý.
Hộ Tống hạm Nhật Tảo HQ 10 Toshi Yoshihara. Mùa Xuân 2016. Theo U.S. Naval War College Trần H Sa lược dịch (Xin lưu ý, các dử liệu về trận hải chiến Hoàng sa 1974 được tác giả nêu lên trong bài viết này đều dựa chủ yếu vào các tài liệu Trung quốc; tài liệu của phía VNCH không có, ngoại trừ một vài bài viết của các sĩ quan hải quân VNCH tham dự trận đánh được trình bày bằng Anh ngữ. Như tác giả đã cảnh giác "Hãy cẩn thận về phẩm chất của các nguồn tài liệu và phương pháp đang được đề cập......Do đó, những gì theo sau đó không phải là một quan điểm trung lập". Cho n ên, người dịch mạn phép được đánh dấu những nơi mà tài liệu TQ thiếu khách quan bằng dấu hỏi kèm mẫu tự, ví dụ (a?), mong người đọc hãy khách quan nhận xét lại theo quan điểm của mình; n goài ra c ác ghi chú nguồn tài liệu được tác giả đánh dấu bằng các số thứ tự rải rác trong bài viết xin theo dỏi trong bản gốc tiếng Anh ở link giới thiệu bên trên .) ----------------...