ĐẠO CỦA VẬT LÝ...BIẾT VÀ THẤY. (b)

Khám phá những điểm tương đồng giữa Vật lý học hiện đại và Huyền học của phương Đông.

Zen

Frifjof Capra…..Shambhala Boulder … 1975.

PHẦN I…CON ĐƯỜNG CỦA VẬT LÝ.

CHƯƠNG 2 ….BIẾT VÀ THẤY. (tiếp theo và hết chương 2).

Joseph Needham nhiều lần đưa thái độ dựa trên kinh nghiệm của các đạo sĩ trở nên nổi bật trong tác phẩm Khoa học và Văn minh ở Trung Quốc của mình, và nhận thấy rằng thái độ này đã làm cho Đạo giáo trở thành cơ sở của khoa học và công nghệ Trung Quốc. Theo lời của Needham, các nhà triết gia đầu tiên của Đạo giáo đã ‘rút lui vào vùng hoang dã, vào rừng núi, ở đó để suy ngẫm về trật tự của tự nhiên, và để quan sát vô số hình thái của nó '.

Tinh thần tương tự cũng được phản ánh trong các câu thơ Thiền, Ai muốn hiểu được ý nghĩa của Phật tính, phải quan sát mối quan hệ nhân quả..

Cơ sở vững chắc của kiến ​​thức dựa trên kinh nghiệm trong huyền học phương Đông cho thấy một sự tương đồng với cơ sở vững chắc của kiến thức khoa học dựa trên thực nghiệm. Sự tương đồng này càng được rõ ràng bởi bản chất của kinh nghiệm huyền học. Nó được mô tả trong các truyền thống phương Đông như một cái nhìn sâu sắc trực tiếp, nằm bên ngoài lĩnh vực của suy luận và được lĩnh hội bằng cách quan sát chứ không phải là suy nghĩ; bằng cách nhìn vào bên trong chính mình; bằng sự quan sát.

Trong Đạo giáo, khái niệm quan sát này được thể hiện trong tên gọi của các ngôi đền thuộc Đạo giáo, kiến (kuan), ban đầu nghĩa là "nhìn". Do đó, các đạo sĩ coi đền thờ của họ như là nơi quan sát. Trong Chân ngôn tông của Phật giáo, một phiên bản Thiền của Trung Quốc, giác ngộ thường được gọi là 'cái nhìn của Đạo', và cái thấy được coi là nền tảng của sự hiểu biết trong tất cả các trường phái Phật học. Đề tài đầu tiên của Bát Chánh Đạo, đơn thuốc của Đức Phật dành cho sự tự nhận thức, là cái thấy đúng, tiếp theo là cái biết đúng.

D. T. Suzuki viết về điểm này:

"Cái thấy đóng một vai trò quan trọng nhất trong nhận thức luận của Phật giáo, vì cái thấy là nền tảng của cái biết.
Không thể không thấy mà biết; tất cả kiến ​​thức đều có nguồn gốc từ cái thấy. Vì thế, biết và thấy thường thống nhất trong lời dạy của Đức Phật. Do đó, triết học Phật giáo cuối cùng hướng đến việc nhìn thấy thực tại như nó là. Thấy là chứng ngộ ”.

Đoạn văn này cũng gợi nhớ đến Don Juan, nhà huyền bí người Yaqui đã nói, “Tôi thích nhìn thấy. . .bởi vì chỉ bằng cách nhìn thấy, một người có tri thức mới có thể biết được."

Một lời cảnh báo có lẽ nên được thêm vào đây. Việc nhấn mạnh vào cái nhìn thấy trong các truyền thống huyền học không nên hiểu theo nghĩa đen, mà phải hiểu theo nghĩa ẩn dụ, vì kinh nghiệm của huyền học về thực tại là một trải nghiệm mà bản chất là phi cảm quan. Khi các nhà huyền học phương Đông nói về 'thấy', họ đề cập đến một lối nhận thức có thể bao gồm nhận thức trực quan, nhưng về cơ bản luôn luôn vượt qua nó để trở thành một trải nghiệm phi cảm quan về thực tại. Tuy nhiên, điều mà họ nhấn mạnh khi họ nói về cái thấy, cái nhìn hoặc quan sát, là đặc điểm của kiến ​​thức dựa trên kinh nghiệm của họ. Cách tiếp cận dựa trên kinh nghiệm này của triết học phương Đông gợi nhớ một cách mạnh mẽ sự nhấn mạnh vào việc quan sát trong khoa học, và do đó gợi lên một khuôn khổ cho sự so sánh của chúng ta. Các giai đoạn thực nghiệm trong nghiên cứu khoa học dường như tương ứng với cái nhìn sâu sắc trực tiếp của nhà huyền học phương Đông, các mô hình và lý thuyết khoa học tương ứng với nhiều cách khác nhau mà cái nhìn sâu sắc này được giải thích.

Sự tương đồng giữa các thí nghiệm khoa học và những trải nghiệm huyền học có vẻ đáng ngạc nhiên khi xem xét bản chất rất khác nhau của những hành vi quan sát này. Các nhà vật lý thực hiện các thí nghiệm đòi hỏi một công việc thực hiện theo nhóm một cách tỉ mĩ, và một công nghệ rất phức tạp, trong khi các nhà huyền học có được kiến ​​thức của họ hoàn toàn thông qua nội tâm, không có máy móc, trong sự bí mật của thiền định. Hơn nữa, thí nghiệm khoa học, dường như có thể lặp lại bất cứ lúc nào và bởi bất kỳ ai, trong khi những trải nghiệm của huyền học dường như được dành riêng cho một vài cá nhân ở những thời điểm đặc biệt. Tuy nhiên, một cuộc kiểm tra kỹ hơn cho thấy rằng sự khác biệt giữa hai loại quan sát chỉ nằm ở cách tiếp cận của chúng chứ không nằm ở độ tin cậy hay độ phức tạp của chúng.

Bất kỳ ai muốn lặp lại một thí nghiệm trong vật lý hạ nguyên tử hiện đại đều phải trải qua nhiều năm đào tạo. Chỉ khi đó người ấy mới có thể đặt ra những câu hỏi cụ thể về thiên nhiên thông qua thử nghiệm, và mới có thể hiểu được câu trả lời. Tương tự, một trải nghiệm huyền học sâu sắc, nói chung, đòi hỏi nhiều năm học đạo với một bậc thầy giàu kinh nghiệm, và như trong quá trình đào tạo khoa học, một mình vấn đề thời gian chuyên tâm tu học không bảo đảm cho sự thành công. Tuy nhiên, nếu người học thành công, họ sẽ có thể 'lặp lại thí nghiệm'. Tính lặp lại của trải nghiệm, trên thực tế, là điều cần thiết cho mọi tu học huyền bí và là mục đích trong hướng dẫn tâm linh của nhà huyền bí.

Do đó, một trải nghiệm huyền bí không có gì là dị thường so với một thí nghiệm trong vật lý hiện đại. Mặt khác, nó cũng không kém phần tinh vi, mặc dù độ tinh xảo của nó thuộc loại rất khác. Sự phức tạp và hiệu quả ở dụng cụ kỹ thuật của nhà vật lý được so sánh, nếu không muốn nói là bị vượt qua, bởi ý thức của nhà huyền bí - cả thể chất lẫn tâm linh - trong thiền định thâm sâu. Sau đó, nhà khoa học và nhà huyền học, phát triển những phương pháp quan sát thiên nhiên vô cùng tinh vi mà người không được đào tạo hay không học đạo không thể tiếp cận được.

Một trang tạp chí vật lý thực nghiệm hiện đại, sẽ là bí ẩn đối với những người không biết gì về vật lý, y như một mạn đà la (đồ hình, linh phù) của người Tây Tạng . Cả hai đều là những ghi chép những thắc mắc về bản chất của vũ trụ. Mặc dù những trải nghiệm huyền bí sâu sắc, nói chung, không xảy ra nếu không có sự chuẩn bị lâu dài, thế nhưng những hiểu biết trực quan trực tiếp được trải nghiệm bởi tất cả chúng ta trong cuộc sống hàng ngày. Tất cả chúng ta đều quen thuộc với tình huống mà ở đó chúng ta quên tên của một người hoặc một địa điểm, hoặc một số từ khác, và không thể hình dung nó mặc dù đã tập trung cao độ. Chúng ta có nó 'trên đầu lưỡi của chúng ta' nhưng nó sẽ không phát ra, cho đến khi chúng ta từ bỏ cái bị quên, chuyển sự chú ý của mình sang một thứ khác và lúc bất chợt, trong nháy mắt, ta nhớ lại cái đã quên. Không có tư duy nào dính líu vào quá trình này. Nó là một sự đột ngột, cái nhìn sâu sắc mang tính ngay lập tức. Ví dụ này về việc đột nhiên nhớ ra điều gì đó, đặc biệt liên quan đến Đạo Phật vốn cho rằng bản chất nguyên thủy của chúng ta là bản chất của Đức Phật đã giác ngộ, và chúng ta đã quên nó. Thiền sinh của Thiền tông được yêu cầu khám phá ‘khuôn mặt nguyên thủy’ ( bản lai diện mục ) của họ và sự đột ngột ‘nhớ lại’ khuôn mặt này là sự giác ngộ của họ. Một ví dụ nổi tiếng khác về những hiểu biết sâu sắc trực quan tự phát, là những câu chuyện cười. Khi bạn hiểu một trò đùa trong tích tắc, ở đó bạn trải qua một khoảnh khắc 'giác ngộ'. Phải biết rằng khoảnh khắc này phải đến một cách tự nhiên, không thể đạt được bằng sự 'giải thích' trò đùa, tức là bằng phân tích của suy luận. Chỉ với sự nhận bắt sâu sắc về bản chất của trò đùa một cách trực quan đột ngột, điều đó mới làm cho chúng ta trải nghiệm được tiếng cười phóng khoáng mà trò đùa tạo ra. Sự giống nhau giữa việc thấu hiểu sâu sắc về tâm linh và sự hiểu biết về một trò đùa, phải là sự hiểu biết sâu sắc dành cho những con người giác ngộ, vì họ gần như luôn luôn thể hiện một khiếu hài hước tuyệt vời. Đặc biệt, Thiền có đầy những câu chuyện hài hước và những giai thoại, và trong Đạo Đức Kinh chúng ta đọc thấy, ‘Nếu không bị cười nhạo, sẽ không đủ là Đạo‘.

Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, những hiểu biết trực quan trực tiếp về bản chất của sự vật, thường bị giới hạn ở những khoảnh khắc cực kỳ ngắn ngủi. Trong huyền học phương Đông không phải như vậy, ở đó chúng được kéo dài với thời gian và cuối cùng, trở thành một nhận thức bất biến. Sự chuẩn bị cho khả năng nhận rõ nhận thức này - nhận thức tức thời, phi khái niệm về thực tại - là mục đích chính của tất cả các trường phái huyền học phương Đông, và của nhiều khía cạnh của đời sống phương Đông. Trong lịch sử văn hóa lâu đời của Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản, rất nhiều kỹ xảo, nghi lễ và các hình thức nghệ thuật đã được phát triển để đạt được mục đích này, tất cả đều có thể được gọi là thiền trong nghĩa rộng nhất của từ này.

Mục đích căn bản của những kỹ xảo này dường như là làm cho tư duy được tĩnh lặng, và chuyển nhận thức từ lý tính sang phương thức trực quan của ý thức. Trong nhiều hình thức thiền định, sự tĩnh lặng này của lý trí đạt được bằng cách tập trung sự chú ý của một người vào một đề tài duy nhất, chẳng hạn như hơi thở của một người, âm thanh của một câu thần chú, hoặc hình ảnh trực quan của một mạn đà la. Các trường phái khác tập trung sự chú ý vào các chuyển động của cơ thể mà phải được thực hiện một cách tự nhiên, không có sự can thiệp của bất kỳ ý nghĩ nào. Đây là cách Yoga của người Ấn Độ giáo và Thái Cực Quyền của Đạo giáo. Các chuyển động nhịp nhàng của các trường phái này có thể dẫn đến cảm giác bình yên và thanh thản tương tự, vốn là đặc điểm của các hình thức thiền tĩnh tại hơn; một cảm giác bất ngờ cũng có thể được tạo ra bởi một số môn thể thao. Theo kinh nghiệm của tôi, ví dụ, trượt tuyết là một hình thức thiền rất bổ ích.

Các loại hình nghệ thuật phương Đông cũng vậy, là các hình thức thiền. Chúng không cần quá nhiều phương tiện để thể hiện ý tưởng của nghệ sĩ, vì người xem tự nhận thức thông qua sự phát triển phương thức trực quan của ý thức. Âm nhạc Ấn Độ không được học bằng cách đọc các nốt nhạc, mà bằng cách nghe sự trình diễn của người thầy và do đó phát triển cảm xúc với âm nhạc, cũng như các động tác của Thái Cực Quyền không được học bởi những hướng dẫn bằng lời nói, mà bằng cách lặp đi lặp lại việc thực hiện chúng cùng với thầy dạy. Nghi lễ trà đạo của người Nhật đầy những chuyển động chậm rãi, mang tính nghi thức. Thư pháp Trung Quốc đòi hỏi tự do, chuyển động thanh thoát của bàn tay.

Tất cả những kỹ năng này được sử dụng ở phương Đông để phát triển phương thức thiền định của ý thức. Đối với hầu hết mọi người, và đặc biệt là đối với giới trí thức, thể loại ý thức này là một trải nghiệm hoàn toàn mới. Các nhà khoa học quen thuộc với những hiểu biết trực quan trực tiếp từ nghiên cứu của họ, bởi vì mọi khám phá mới, đều bắt nguồn từ những chớp nhoáng không lời, đột ngột như vậy. Nhưng đây là những khoảnh khắc cực kỳ ngắn ngủi được phát sinh, khi nhận thức được lấp đầy bởi nhiều thông tin, với các khái niệm và khuôn mẫu tư duy. Mặt khác, trong thiền định, tâm trí trống vắng mọi suy nghĩ, khái niệm và do đó chuẩn bị hoạt động trong thời gian dài, thông qua mô thức trực quan của nó. Lào Tử bàn về sự tương phản này giữa nghiên cứu và thiền định khi ông ấy nói:

"Kẻ theo đuổi việc học sẽ ngày càng tăng ;
Người theo đuổi tìm Đạo sẽ ngày càng giảm."

Khi nhận thức dựa trên lý trí được tĩnh lặng, thể loại trực giác tạo ra một nhận thức phi thường; môi trường được trải nghiệm một cách trực tiếp mà không thông qua tư duy khái niệm. Theo lời của Trang Tử, ‘Tâm tĩnh lặng của hiền nhân phản chiếu trời đất - là chiếc gương soi vạn vật’.

Kinh nghiệm hòa nhập với môi trường chung quanh là đặc điểm chính của tình trạng thiền định này. Đó là một trạng thái ý thức mà ở đó mọi hình thức chia cắt đã không còn, biến mất dần, thành khối thống nhất không phân biệt.

Trong thiền định sâu, tâm trí hoàn toàn tỉnh lặng. Ngoài sự lĩnh hội về thực tại một cách phi cảm quan, nó cũng thu nhận tất cả âm thanh, cảnh quan và các ấn tượng khác về môi trường chung quanh, nhưng nó không nắm giữ các hình ảnh bằng cảm giác để phân tích hoặc giải thích. Họ không được phép phân tán sự chú ý. Một trạng thái ý thức như vậy không khác gì trạng thái chú tâm của một chiến binh chờ đợi một cuộc tấn công trong sự cảnh giác cao độ, ghi nhận mọi thứ diễn ra chung quanh anh ta mà không một phút bị ngoại cảnh làm cho phân tâm.

Thiền sư Yasutani Roshi sử dụng hình ảnh này trong mô tả của ông về thực hành hay hiện thực hóa tánh Không (shikantaza), một cách thực hành thiền định:

"Shikan-taza là trạng thái nhận thức tập trung cao độ, trong đó người ta không căng thẳng cũng không vội vã, và nhất định không bao giờ xao lãng. Đó là tâm trí của kẻ đối mặt với cái chết. Chúng ta hãy tưởng tượng rằng bạn đang tham gia vào một trận đấu kiếm thuật tay đôi, loại kiếm thuật từng gây sốt ở Nhật Bản cổ đại. Khi đối mặt với đối thủ, bạn không ngừng đề phòng, chuẩn bị, sẵn sàng. Nếu bạn buông lỏng cảnh giác trong giây lát, bạn sẽ bị hạ gục ngay lập tức. Một đám đông tụ tập để xem trận đấu. Vì bạn không mù nên bạn nhìn thấy họ từ khóe mắt của bạn, và vì bạn không bị điếc nên bạn nghe thấy họ. Nhưng tâm trí bạn hoàn toàn không bị thu hút bởi những ấn tượng giác quan này."

Bởi vì sự tương đồng giữa trạng thái thiền định và trạng thái tâm trí của một chiến binh, hình ảnh của chiến binh đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần và văn hóa của phương Đông. Sân khấu dành cho các vở kịch mang tímh tôn giáo được yêu thích của người Ấn Độ, Bhagavad Cita, là một chiến trường và võ thuật là một phần quan trọng trong văn hóa truyền thống của Trung Quốc và Nhật Bản. Ở Nhật Bản, ảnh hưởng mạnh mẽ của Thiền đối với truyền thống của các samurai đã tạo ra cái được gọi là bushido, tức là 'con đường của chiến binh', một nghệ thuật thi đấu kiếm thuật mà ở đó nhận thức sâu sắc về tinh thần của kiếm sĩ đạt đến mức hoàn hảo nhất. Thái Cực Quyền của Đạo giáo, vốn được coi là môn võ thuật tối cao ở Trung Quốc, kết hợp các động tác ‘yogic’ chậm chạp và nhịp nhàng, với toàn bộ sự tỉnh lặng trong tâm trí của võ sĩ theo một cách độc đáo.

Huyền học phương Đông dựa trên những hiểu biết trực tiếp sâu sắc về bản chất của thực tại, và vật lý học dựa trên sự quan sát các hiện tượng tự nhiên trong các thí nghiệm khoa học. Trong cả hai lĩnh vực, các quan sát sau đó được diễn giải và việc diễn giải thường được truyền đạt bằng lời nói. Vì lời nói luôn là một bản đồ trừu tượng, gần đúng của thực tại, việc giải thích một thí nghiệm khoa học hoặc một nhận thức huyền bí sâu sắc bằng lời nói nhất định không chính xác và không đầy đủ. Các nhà vật lý hiện đại cũng như các nhà huyền học phương Đông đều nhận thức được thực tế này.

Trong vật lý, việc giải thích các thí nghiệm được gọi là mô hình hoặc lý thuyết và nhận thức rằng tất cả mô hình và lý thuyết đều chỉ gần đúng, là nền tảng cho nghiên cứu khoa học hiện đại. Do đó, câu cách ngôn của Einstein nói, " như những gì các định luật toán học đề cập đến thực tại, chúng đều không chắc chắn; và như những gì là chắc chắn, thì chúng không đề cập đến thực tại.” Các nhà vật lý biết rằng, các phương pháp phân tích và suy luận logic của họ không bao giờ có thể giải thích toàn bộ lĩnh vực của các hiện tượng tự nhiên cùng một lúc, và do đó họ chọn ra một nhóm hiện tượng nhất định và cố gắng xây dựng một mô hình để mô tả nhóm này. Khi làm như vậy, họ bỏ qua các hiện tượng khác và do đó mô hình sẽ không cung cấp một mô tả đầy đủ về tình hình thực tế. Các hiện tượng không được đưa vào nghiên cứu có thể có tác động nhỏ đến mức, nếu đưa chúng vào sẽ không làm thay đổi lý thuyết đáng kể, hoặc chúng có thể bị loại bỏ, đơn giản vì chúng không được biết đến vào thời điểm lý thuyết được xây dựng. Để minh họa cho những quan điểm này, chúng ta hãy xem xét một trong những mô hình nổi tiếng nhất trong vật lý, đó là cơ học ‘cổ điển’ của Newton. Ví dụ, các ảnh hưởng của lực cản không khí hoặc ma sát, thường không được tính đến trong mô hình này, bởi vì chúng thường rất nhỏ. Nhưng ngoài những thiếu sót đó, cơ học Newton đã có một thời gian dài được coi là lý thuyết hoàn chỉnh để mô tả mọi hiện tượng tự nhiên, cho đến khi các hiện tượng liên quan đến điện và từ trường, vốn không có chỗ trong lý thuyết của Newton, được khám phá. Sự phát hiện ra những hiện tượng này cho thấy rằng mô hình đó chưa hoàn chỉnh, nó chỉ có thể được áp dụng cho một nhóm hiện tượng hạn chế, thực chất chỉ là chuyển động của vật rắn.

Nghiên cứu một nhóm hiện tượng hạn chế cũng có thể có nghĩa là chỉ nghiên cứu các tính chất vật lý của chúng trên một phạm vi giới hạn, vốn có thể là một lý do khác để lý thuyết được xem là gần đúng.

Khía cạnh gần đúng này khá tinh vi vì chúng ta không bao giờ biết trước được đâu là giới hạn của một lý thuyết sai lầm. Chỉ kinh nghiệm mới có thể cho biết. Do đó, hình ảnh của cơ học cổ điển càng bị xói mòn hơn nửa khi vật lý của thế kỷ XX cho thấy những hạn chế căn bản của nó. Ngày nay chúng ta biết rằng mô hình Newton chỉ có giá trị đối với các đối tượng bao gồm một số lượng lớn các nguyên tử kết hợp lại, và chỉ đối với các vận tốc nhỏ hơn so với tốc độ ánh sáng. Khi điều kiện thứ nhất không được nêu ra, cơ học cổ điển phải được thay thế bằng lý thuyết lượng tử; khi điều kiện thứ hai không được thỏa mãn, thuyết tương đối phải được áp dụng. Điều này không có nghĩa mô hình của Newton là 'sai', hoặc lý thuyết lượng tử và thuyết tương đối là ‘đúng’. Tất cả các mô hình này đều là những đánh giá không chính xác nhưng gần đúng, vốn có giá trị đối với phạm vi của một số hiện tượng nhất định nào đó. Ngoài phạm vi này, chúng không còn mô tả thỏa đáng về thiên nhiên, và phải tìm các mô hình mới để thay thế các mô hình cũ - hoặc tốt hơn là mở rộng chúng bằng cách cải thiện tính gần đúng.

Để xác định các hạn chế của một mô hình nhất định, thường là một trong những điều khó khăn nhất, nhưng cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong việc giải thích nó. Theo Geoffrey Chew, 'các mô hình bootstrap' sẽ được thảo luận nhiều về sau, điều cần thiết là người ta phải luôn đòi hỏi, ngay khi một mô hình hoặc lý thuyết nào đó được tìm thấy để hoạt động : tại sao nó hoạt động ? giới hạn của mô hình là gì? bằng cách nào, chính xác hay không, nó có gần đúng hay không ? Những câu hỏi này được Chew xem là bước đầu tiên để đạt được tiến bộ hơn nữa.

Các nhà huyền học phương Đông cũng nhận thức rõ rằng tất cả các mô tả bằng lời về thực tại đều không chính xác và không đầy đủ. Kinh nghiệm trực tiếp về thực tại vượt qua lãnh vực của suy nghĩ và ngôn ngữ, và vì tất cả huyền học dựa trên trải nghiệm trực tiếp như vậy, nên mọi thứ nói về nó chỉ có thể đúng một phần. Trong vật lý, bản chất gần đúng của tất cả các phát biểu được định lượng và phát triển, đều được thực hiện bằng cách cải thiện sự gần đúng trong nhiều bước liên tiếp. Vậy, các truyền thống phương Đông giải quyết vấn đề của giao tiếp bằng lời nói như thế nào ? Trước hết, các nhà huyền học chủ yếu quan tâm đến trải nghiệm thực tại chứ không quan tâm đến mô tả về trải nghiệm này. Do đó, họ thường không quan tâm đến việc phân tích một mô tả như vậy, và do đó một sự gần đúng rõ ràng chưa bao giờ xuất hiện trong tư tưởng phương Đông. Mặt khác, nếu các nhà huyền học phương Đông muốn truyền đạt kinh nghiệm của họ, họ phải đối mặt với hạn chế của ngôn ngữ. Một số cách khác nhau đã được phát triển ở phương Đông để giải quyết vấn đề này.

Huyền học Ấn Độ, và đặc biệt là Ấn Độ giáo, khoác lên những tuyên bố của mình với những dạng thần thoại, sử dụng phép ẩn dụ và các biểu tượng, hình ảnh mang chất thơ, mô phỏng và ngụ ngôn. Ngôn ngữ thần thoại ít nhiều hạn chế bớt những lý luận và cảm tính. Nó đầy ma lực và những tình huống ngược đời, giàu gợi hình và không bao giờ chính xác, và do đó có thể truyền đạt cái mà các nhà huyền học trải nghiệm thực tại, tốt hơn nhiều so với ngôn ngữ thực tế. Theo Ananda Coomaraswamy, "huyền thoại tiêu biểu cho cách tiếp cận gần nhất với chân lý tuyệt đối mà có thể được phát biểu bằng lời. "

Trí tưởng tượng phong phú của người Ấn Độ đã tạo ra một số lượng lớn các vị thần và nữ thần mà những hóa thân và những thánh tích của họ là chủ đề của những câu chuyện tuyệt vời, được thu thập trong các sử thi có quy mô khổng lồ. Người Ấn Độ giáo với cái nhìn sâu sắc biết rằng, tất cả những vị thần này là sự sáng tạo của tâm thức, những hình ảnh thần thoại đại diện cho nhiều khuôn mặt của thực tại. Mặt khác, họ cũng biết rằng chúng không chỉ được tạo ra để làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn, mà còn là phương tiện thiết yếu để chuyển tải các học thuyết của một nền triết học bắt nguồn từ kinh nghiệm huyền bí.

Các nhà huyền học Trung Quốc và Nhật Bản tìm ra một cách khác để giải quyết vấn đề ngôn ngữ. Thay vì làm cho bản chất nghịch lý của thực tại có thể chấp nhận được thông qua các biểu tượng và hình ảnh thần thoại, họ thường rất thích làm nổi bật nó bằng cách sử dụng ngôn ngữ thực tế. Do đó, các đạo sĩ thường xuyên sử dụng các nghịch lý để phơi bày những mâu thuẫn nảy sinh từ giao tiếp bằng lời nói và chỉ ra những giới hạn của nó. Họ đã vượt qua kỹ thuật này với các nhà sư Phật giáo ở Trung Quốc và Nhật Bản, những vị đã phát triển nó hơn nữa. Họ đã đạt đến cực điểm trong Thiền tông với cái gọi là những công án, những câu đố vô nghĩa được nhiều thiền sư sử dụng để truyền tải giáo lý. Những công án này chứng minh một sự tương đồng quan trọng với vật lý học hiện đại, sẽ được trình bày trong chương tiếp theo.

Ở Nhật Bản, còn tồn tại một phương thức khác để thể hiện quan điểm triết học, cần được đề cập. Nó là một thể thơ đặc biệt súc tích thường được các thiền sư sử dụng để chỉ thẳng vào 'cái như thị' của thực tại. Khi một nhà sư hỏi Fuketsu Ensho, 'Khi nào thì nói và im lặng đều không thể chấp nhận được, làm thế nào để ai đó có thể vượt qua mà không có lỗi ?" Vị thiền sư trả lời:

"Luôn nhớ đến Kiangsu, vào tháng ba, Tiếng chim đa đa, Thơm ngát những cụm hoa."

Dạng thơ tâm linh này đã đạt đến độ hoàn hảo trong thơ haiku, một thể thơ cổ điển của Nhật Bản chỉ có mười bảy âm tiết, vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của Thiền. Sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của Cuộc sống bởi những nhà thơ haiku này, được bắt gặp ngay cả trong bản dịch tiếng Anh:

"Những chiếc lá rơi,
Nằm lên nhau;
Mưa đập vào mưa."

Bất cứ khi nào các nhà huyền học phương Đông diễn đạt kiến ​​thức của họ bằng lời - thường được trợ giúp bởi thần thoại, biểu tượng, những hình ảnh thơ mộng hoặc những câu nói nghịch lí - họ nhận thức rõ những hạn chế do ngôn ngữ và lối 'suy nghĩ" xếp hàng. Vật lý hiện đại có cùng một thái độ y như vậy, liên quan đến mô hình và lý thuyết diễn đạt bằng lời nói. Chúng cũng chỉ mang tính chất gần đúng và tất yếu không chính xác. Chúng là những bản đối chiếu của thần thoại phương Đông, biểu tượng và hình ảnh thơ mộng, và ở mức này tôi sẽ vẽ ra các điểm tương đồng. Ví dụ, tương tự ý tưởng về vật chất được truyền đạt cho người Ấn Độ giáo là do vũ điệu vũ trụ của thần Shiva, thì đối với nhà vật lý vật chất là do các khía cạnh nhất định của lý thuyết trường lượng tử. Cả hai thể loại thần khiêu vũ và lý thuyết vật lý đều là những sáng tạo của nhận thức : những thể loại mô tả một cách trực quan về thực tại của các tác giả.


_ Fritjof Capra (sinh ngày 1 tháng 2 năm 1939) là một nhà vật lý người Mỹ gốc Áo, nhà lý thuyết hệ thống và là nhà sinh thái học sâu sắc. Năm 1995, ông trở thành giám đốc sáng lập Trung tâm xóa mù chữ ở Berkeley, California . Ông ấy là giảng viên của Schumacher College.

THS sưu tầm và lược dịch…..07/09/2020.


 

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.