ĐẠO CỦA VẬT LÝ...LẢO GIÁO.

Khám phá những điểm tương đồng giữa Vật lý học hiện đại và Huyền học của phương Đông.

Hình minh họa

Frifjof Capra…..Shambhala Boulder … 1975.

PHẦN II… CON ĐƯỜNG HUYỀN HỌC PHƯƠNG ĐÔNG.

Chương 8… LẢO GIÁO. ( hay ĐẠO GIÁO ).

Trong hai xu hướng chính của tư tưởng Trung Quốc, Nho giáo và Đạo giáo, thì Đạo giáo là xu hướng theo định hướng huyền bí và do đó phù hợp hơn cho sự so sánh của chúng ta với vật lý hiện đại.

Giống như Ấn Độ giáo và Phật giáo, Đạo giáo quan tâm đến trí tuệ trực giác, chứ không phải là kiến ​​thức dựa trên lý trí. Nói một cách cơ bản, Đạo giáo thừa nhận những hạn chế và tính tương đối của tư duy duy lý về thế giới, là một cách giải thoát khỏi thế giới, và về mặt này, có thể so sánh với các cách của Yoga hay Vedanta trong Ấn Độ giáo, hoặc Bát chánh đạo của Đức Phật.

Trong bối cảnh văn hóa Trung Quốc, sự giải thoát của Đạo giáo, cụ thể hơn, là sự giải thoát khỏi những quy tắc nghiêm khắc tầm thường. Đạo giáo không tin vào kiến ​​thức và lý luận thông thường, mạnh hơn bất kỳ trường phái triết học nào khác của phương Đông . Nó dựa trên niềm tin chắc chắn rằng trí tuệ con người không bao giờ có thể lĩnh hội được Đạo. Theo Trang Tử, "Kiến thức sâu rộng nhất không nhất thiết là biết; lý luận sẽ không làm cho ai đó khôn ngoan. Các nhà hiền triết kiên quyết chống lại cả hai phương pháp này. "

Sách Trang Tử của Đạo gia chứa đầy những đoạn phản ảnh sự khinh thường lý luận và lập luận. Vì vậy, ông nói : "Một con chó không được cho là tốt vì nó sủa tốt, và một người không được cho là khôn ngoan vì nói năng một cách khéo léo và 'tranh luận' là một bằng chứng của việc không nhìn thấy rõ."

Lý luận lôgic cùng với những nghi lễ xã hội và những chuẩn mực đạo đức, được Đạo gia coi là một phần trong thế giới giả tạo của con người. Họ không quan tâm đến thế giới giả tạo này chút nào, mà chỉ tập trung hoàn toàn sự chú ý của họ vào việc quan sát thiên nhiên để phân biệt ‘các đặc điểm của Đạo’. Do đó, họ đã phát triển một thái độ mà về cơ bản là có tính khoa học, và chỉ do sự ngờ vực sâu sắc của họ vào phương pháp phân tích, nên đã ngăn cản họ xây dựng các lý thuyết khoa học thích đáng. Tuy nhiên, sự quan sát thiên nhiên một cách cẩn thận, kết hợp với một trực giác huyền bí mạnh mẽ, đã dẫn các nhà hiền triết của Đạo giáo đến những hiểu biết hết sức sâu sắc, mà đã được xác nhận bởi các lý thuyết khoa học hiện đại. Một trong những hiểu biết quan trọng nhất của các Đạo sĩ là nhận ra rằng, biến đổi và thay đổi là những đặc điểm thiết yếu của tự nhiên. Một đoạn trong Trang tử cho thấy rõ tầm quan trọng cơ bản của sự thay đổi, đã được nhận ra khi quan sát thế giới hữu cơ:

"Trong sự biến đổi và phát triển của vạn vật, mọi sự đơm hoa kết trái và những đặc điểm ở đó, đều có dạng phù hợp của nó. Với điều này, chúng ta có sự trưởng thành và suy tàn dần dần của chúng, dòng biến đổi và thay đổi không ngừng."

Các Đạo sĩ xem mọi thay đổi trong tự nhiên là biểu hiện của sự tác động qua lại giữa các cực đối lập âm và dương, và do đó họ tin rằng bất kỳ cặp đối lập nào cũng tạo thành một mối quan hệ thông qua cực, trong đó mỗi trong hai cực được liên kết động với nhau.

Đối với tư duy phương Tây, ý tưởng về tính hợp nhất tiềm ẩn trong các mặt đối lập của vạn vật, là cực kỳ khó chấp nhận. Những kinh nghiệm và các giá trị mà chúng ta luôn tin là chúng trái ngược nhau, xét cho cùng, đều là các khía cạnh của cùng một sự vật; có vẻ đó là điều nghịch lý nhất đối với chúng ta. Tuy nhiên, ở phương Đông, nó luôn được coi là điều cần thiết cho việc đạt được giác ngộ, vượt ra khỏi "sự đối lập trần tục", và ở Trung Quốc, mối quan hệ đối lập của các cực chính là nền tảng tư tưởng của Đạo gia. Vì vậy, Trang Tử nói, "Đây" cũng là "Đó". Cái ‘đó’ cũng là ‘cái này’. . . Rằng ‘cái đó’ và ‘cái này’ không còn là các mặt đối lập, là bản chất của Đạo. Một trục đối xứng như nó vốn có, là tâm của vòng tròn nên không bị ảnh hưởng trước những thay đổi vô tận, là bản chất của Đạo.

Từ quan niệm cho rằng các chuyển động của Đạo là sự tác động qua lại liên tục giữa các mặt đối lập, Đạo gia suy ra hai quy tắc ứng xử cơ bản cho con người. Họ nói, bất cứ khi nào bạn muốn đạt được bất cứ điều gì, bạn nên bắt đầu với điều ngược lại của nó. Vì vậy, Lão Tử nói:

"Để thu nhỏ một điều, chắc chắn người ta phải mở rộng nó trước.
"Muốn yếu, thì trước tiên phải mạnh lên.
"Để đạp đổ, người ta chắc chắn sẽ đề cao trước.
"Muốn lấy, chắc chắn người ta sẽ cho trước."

Đây được gọi là sự khôn ngoan tinh tế. Mặt khác, bất cứ khi nào bạn muốn có bất cứ thứ gì, bạn nên thừa nhận một điều gì đó trái ngược với nó:

"Hãy uốn cong, bạn sẽ vẫn thẳng.
"Chấp nhận khuyết, bạn sẽ vẫn đầy đủ.
"Mặc đồ củ, bạn sẽ vẫn như mới."

Đây là cách sống của nhà hiền triết, người đã đạt đến một quan điểm cao hơn, một quan điểm mà từ đó nhận thức rõ ràng tính tương đối và mối quan hệ đối cực của tất cả các mặt đối lập. Những mặt đối lập này bao gồm, đầu tiên và quan trọng nhất, là các khái niệm tốt và xấu, tương quan với nhau theo cách giống như âm và dương. Nhận thức được tính tương đối của tốt và xấu, do đó mọi tiêu chuẩn đạo đức đều tương đối, nhà hiền triết Đạo giáo không phấn đấu vì điều tốt, mà cố gắng duy trì sự cân bằng động giữa điều tốt và điều xấu. Trang Tử rất rõ ràng về điểm này:

"Chúng ta sẽ không tuân theo và tôn vinh cái đúng; và không làm gì liên quan đến cái sai?" Và "Chúng ta sẽ không tuân theo và tôn vinh những người bảo vệ cho một chính phủ tốt, và không làm gì liên quan đến những kẻ gây rối loạn ! Hãy thể hiện sự mong muốn được làm quen với các nguyên tắc của Trời Đất, và với những phẩm chất khác nhau của sự vật, nó giống như việc tuân theo và tôn vinh Trời và không quan tâm đến Đất; nó giống như tuân theo và tôn vinh âm và không quan tâm đến dương. Cách cư xử như vậy rõ ràng là không thể theo đuổi."

Điều đáng ngạc nhiên là, vào cùng thời điểm khi Lão Tử và các môn đồ của ông phát triển thế giới quan của họ, thì những đặc điểm cơ bản này của Đạo giáo cũng được dạy ở Hy Lạp, bởi một người mà chúng ta chỉ biết đến qua những câu chuyện rời rạc, và là người đã, đang và vẫn còn thường xuyên bị hiểu lầm. Đạo sĩ Hy Lạp này là Heraclitus ở thành phố Ephesus. Ông đã chia sẻ với Lão Tử không chỉ ở việc nhấn mạnh vào sự thay đổi liên tục, điều mà ông thể hiện trong câu nói nổi tiếng của mình "Mọi thứ đều chảy", mà còn là khái niệm mọi thay đổi đều theo chu kỳ. Ông so sánh trật tự thế giới với 'ngọn lửa bất diệt, bùng cháy trong những điệu nhảy và liên tục cháy trong những điệu nhảy', một hình ảnh thực sự rất giống với ý tưởng về Đạo của người Trung Quốc, được thể hiện trong tác động qua lại theo chu kỳ của âm và dương - Có thể dễ dàng nhận thấy khái niệm thay đổi như là một tác động qua lại của các mặt đối lập, đã dẫn dắt Heraclitus, giống như Lão Tử, phát hiện ra rằng tất cả các mặt đối lập đều là các cực và do đó hợp nhất với nhau. Heraclitus, người Hy Lạp nói, 'Đường đi lên và đi xuống là một và giống nhau', và "Thượng Đế là ngày đêm, là mùa đông mùa hè, là hòa bình chiến tranh, là cơn đói cái no."

Giống như các đạo sĩ, ông xem bất kỳ cặp đối lập nào đều là một thể thống nhất và nhận thức rõ về tính tương đối của tất cả các khái niệm đó. Nói lại những lời của Heraclitus - ‘Mọi thứ lạnh tự sưởi ấm chúng, mọi ấm áp tự nguội lạnh, ẩm ướt tự khô khan, khô khan tự ẩm ướt ' - nhắc nhở chúng ta mạnh mẽ về những điều của Lão Tử, "Dễ sinh khó…. cộng hưởng làm hài hòa âm thanh, cái sau đi theo cái trước."

Sự tương đồng to lớn giữa thế giới quan của hai nhà hiền triết ở thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên, thường không được biết đến, là điều thật đáng ngạc nhiên. Heraclitus thường được đề cập tới khi liên quan đến vật lý hiện đại, nhưng hiếm khi được kết nối với Đạo giáo. Tuy nhiên, chính mối liên hệ này cho thấy rõ nhất rằng, thế giới quan của Lảo tử là của một nhà huyền bí, và do đó, theo ý kiến ​​của tôi, đặt sự tương đồng giữa những ý tưởng của Lảo tử và những ý tưởng của vật lý hiện đại là một quan điểm đúng đắn.

Khi chúng ta nói về khái niệm thay đổi của Đạo giáo, điều quan trọng là nhận ra rằng, không được coi sự thay đổi này xảy ra như là hệ quả của một số lực, mà đúng hơn là của một xu hướng bẩm sinh trong mọi sự vật và mọi tình huống. Các chuyển động của Đạo không bị ép buộc, mà xảy ra một cách tự nhiên và một cách tự phát. Tính tự phát là nguyên tắc hành động của Đạo, và vì hành vi của con người cần được mô phỏng theo hành động của Đạo, tính tự phát cũng nên là đặc điểm trong mọi hành động của con người.

Vì vậy, hành động hòa hợp với thiên nhiên có nghĩa là các Đạo sĩ hành động một cách tự phát và theo bản chất nhất thể của Thiên nhiên. Nó có nghĩa là sự tin tưởng vào trí thông minh trực quan của một người, vốn là bẩm sinh trong tâm thức của con người, cũng như các quy luật thay đổi có tính bẩm sinh trong tất cả mọi thứ chung quanh chúng ta. Do đó, các hành động của nhà hiền triết Đạo giáo nảy sinh từ trí tuệ trực giác của họ, một cách tự nhiên và hài hòa với môi trường chung quanh. Một Đạo sĩ không cần ép buộc bản thân hoặc gò bó bất cứ điều gì chung quanh anh ta, mà chỉ cần điều chỉnh hành động của mình với các chuyển động của Đạo. Theo lời của Hoài Nam Tử, 'Những người tuân theo trật tự tự nhiên chảy trong dòng chảy của Đạo.'

Cách hành động như vậy được gọi là "Vô Vi" trong triết học Đạo giáo; một thuật ngữ có nghĩa đen là 'không hành động', mà Joseph Needham dịch là "kiềm chế những hoạt động trái với tự nhiên", biện minh cho điều này được giải thích với một trích dẫn từ Trang tử :

"Không hành động không có nghĩa là không làm gì và giữ im lặng. Hãy để mọi thứ được phép làm những gì nó làm một cách tự nhiên, đến mức bản chất của nó được thỏa mãn."

Nếu ai đó kiềm chế hành động trái với tự nhiên hoặc như Needham nói, không 'đi ngược lại với mọi thứ', người ấy hòa hợp với Đạo, và do đó hành động của người ấy sẽ thành công. Đây là ý nghĩa của những lời nói dường như rất khó hiểu của Lão Tử, "Với không cần hành động, mọi thứ đều có thể được thực hiện." Sự tương phản của âm và dương không phải chỉ là nguyên tắc cơ bản trong toàn bộ nền văn hóa Trung Quốc, mà còn được phản ánh trong hai xu hướng có ảnh hưởng lớn trong tư tưởng Trung Quốc. Khổng giáo dựa trên lý trí, nam tính, hoạt động và kềm chế. Mặt khác, Đạo giáo nhấn mạnh tất cả những gì là trực quan, nữ tính, huyền bí và mềm mỏng. Lão Tử nói, ‘Không biết gì là cái biết tốt nhất", và "Nhà hiền triết tiếp tục công việc bận bịu của mình mà không cần hành động, và đưa ra lời dạy của mình mà không cần lời nói."

Các Đạo sĩ tin rằng bằng cách thể hiện những phẩm chất nữ tính, dịu dàng của bản chất con người, đó là cách dễ nhất để có một cuộc sống hoàn toàn cân bằng hài hòa với Đạo. Lý tưởng của họ được tóm tắt tốt nhất trong một đoạn văn của Trang tử mô tả một loại Thiên đường của Đạo giáo:

"Người già, trong khi tình trạng hỗn loạn chưa phát triển, đã dự phần vào sự yên tĩnh thanh bình vốn thuộc về thế giới tổng thể. Lúc đó âm dương hòa hợp, phẳng lặng; sự nghỉ ngơi và hoạt động của họ được tiến hành mà không có bất kỳ xáo trộn nào; bốn mùa đều được ghi nhận; không một cái gì nhận lấy bất kỳ tổn thương nào, và không có sự sống nào bị kết thúc sớm.

"Con người có thể sở hữu tài năng nhận ​​thức, nhưng không có cơ hội để sử dụng nó. Đây là những gì được gọi là trạng thái của sự hợp nhất hoàn hảo. Tại thời điểm này, không có hành động từ bất kỳ phía nào - mà chỉ là một biểu hiện của tính tự phát."


Trích từ ĐẠO CỦA VẬT LÝ.
Frifjof Capra…..Shambhala Boulder … 1975.

THS sưu tầm và lược dịch….17/09/2020.


Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.