Biden có khả năng tiếp tục chính sách cứng rắn ở Biển Đông.

Cựu phó tổng thống, Tổng thống đắc cử Joe Biden. Nguồn ảnh: Tasnim News Agency

Drake Long…Ngày 14 tháng 11 năm 2020 ….Theo Eurasia Review

Trần H Sa lược dịch.

Chính sách của Hoa Kỳ ở Biển Đông sẽ mang tính liên tục nhiều hơn là thay đổi, dưới thời chính quyền Biden, những tuyên bố của cựu phó tổng thống và các cố vấn thân cận của ông cho thấy, cũng như lập trường diều hâu về Trung Quốc được giữ vững ở cả hai đảng chính trị lớn.

Tuy nhiên, các chuyên gia cũng tin rằng dưới thời Tổng thống đắc cử Joe Biden, Washington sẽ theo đuổi can dự ngoại giao nhiều hơn nữa với các nước Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền xung quanh vùng biển tranh chấp, sau 4 năm khối khu vực này tương đối ít được chú ý.

Trong chiến dịch tranh cử gay gắt, người ta ít chú ý đến chính sách đối ngoại, khiến khó có thể đoán được Biden hoặc Tổng thống Donald Trump - người vẫn chưa thừa nhận thua cuộc bầu cử ngày 3 tháng 11 - trong bốn năm tới sẽ tiếp cận như thế nào đối với lập trường ngày càng quyết đoán của Trung Quốc, với các tuyên bố có ảnh hưởng sâu rộng của họ đối với Biển Đông .

Mọi thứ sẽ trở nên rõ ràng hơn khi một Chiến lược An ninh Quốc gia mới, một bản đánh giá chính sách liên ngành được công bố. Điều đó sẽ đến trong vòng 150 ngày sau khi tổng thống mới nhậm chức vào ngày 20 tháng 1 năm 2021.

Carl Thayer, một giáo sư tại Đại học New South Wales ở Canberra cho biết, ông không nghĩ có một sự thay đổi triệt để trong cách tiếp cận của Hoa Kỳ - đặc trưng dưới thời Trump là tăng cường các hoạt động quân sự ở Biển Đông, các hoạt động tự do hàng hải, hay gọi là FONOP, và lập trường ngoại giao mạnh mẽ hơn, trước các yêu sách của Trung Quốc đối với các vùng biển tranh chấp.

“Chiến lược sẽ vẫn ở đó, và lợi ích quốc gia rõ ràng sẽ không thay đổi khi Trump không còn là tổng thống,” Thayer nói tại một diễn đàn trực tuyến vào tuần này.

Ông đưa ra một ví dụ về những FONOP, loại hoạt động nhằm mục đích thách thức các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ và hàng hải không được luật pháp quốc tế ủng hộ của Trung quốc. Thayer cho biết các FONOP sẽ tiếp tục, nhưng ở một nhịp độ và phạm vi sẽ được xác định sau đánh giá của liên ngành.

Mặc dù Mỹ không phải là một bên tranh chấp ở Biển Đông, nhưng khoảng 208 tỷ USD hàng hóa của Mỹ đi qua vùng biển đó hàng năm, theo nhóm tư vấn của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế có trụ sở tại Washington.

Việc Trung Quốc quân sự hóa khu vực đã làm dấy lên những lo ngại về sự gián đoạn thương mại, trong khi các tàu tuần duyên và lực lượng dân quân hàng hải của họ thường xuyên xâm phạm vùng biển của các bên tranh chấp khác, bao gồm cả Philippines, một đồng minh hiệp ước của Mỹ. Washington có nghĩa vụ bảo vệ Manila nếu bất kỳ quân nhân nào của nước này bị tấn công ở Biển Đông. (*)

“Cảm nhận của tôi là chính quyền Biden sẽ tiếp tục với khía cạnh quân sự,” giáo sư tại Đại học Mỹ ở Washington, Amitav Acharya nói, khi nhắc đến các FONOP và các chương trình hỗ trợ quân sự mà Mỹ cung cấp cho các nước Đông Nam Á. Trên thực tế, cả hai chính sách đều được đưa ra dưới thời chính quyền Obama khi Biden giữ chức phó tổng thống, mặc dù nhịp độ của các FONOP và các cuộc tập trận quân sự đã tăng nhanh dưới thời Trump.

Acharya nói, “Những gì người Đông Nam Á muốn là Mỹ duy trì sự cân bằng quân sự, can dự ngoại giao, và tất cả các loại viện trợ kinh tế cùng những thứ tương tự mà không có chiến tranh ý thức hệ hoặc nặng lời chống lại Trung Quốc”.

Gắn kết nhiều hơn với ASEAN.

Những kỳ vọng đó chỉ ra những cách mà Biden tiếp cận có thể khác với Trump.

Thayer dự đoán cách tiếp cận chính sách của Biden sẽ “có trật tự hơn”, và chính quyền của ông tăng cường tiếp cận cao cấp với Hiệp hội 10 quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Các nhà phê bình đã cáo buộc tổng thống Mỹ đương nhiệm có cách tiếp cận "con buôn" và gây áp lực lên các chính phủ để buộc chọn phe giữa Mỹ và Trung Quốc.

Thayer nói: “Ông ấy sẽ lắng nghe các nhà lãnh đạo ASEAN và tôi nghĩ rằng điều đó sẽ thay đổi toàn bộ bầu không khí của những gì đang xảy ra. Năm thành viên ASEAN - Brunei, Việt Nam, Malaysia, Philippines và Indonesia - có yêu sách lãnh thổ hoặc vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với yêu sách sâu rộng của Trung Quốc ở Biển Đông.

Trong 8 năm cầm quyền, Tổng thống Barack Obama lúc đó là người thường xuyên tham dự các hội nghị thượng đỉnh hàng năm của ASEAN. Để so sánh, Trump không từng tham dự các hội nghị thượng đỉnh trong suốt 4 năm cầm quyền, và không bổ nhiệm đại sứ tại ASEAN.

Nhưng trong khi cam kết cấp cao của chính quyền Trump với ASEAN bị chỉ trích là nửa vời, họ đã thực hiện một cách tiếp cận cơ bắp hơn để khẳng định sự ủng hộ của mình đối với các quốc gia Đông Nam Á vốn đang phải đối mặt với sức ép của Trung Quốc ở Biển Đông.

Vào tháng 7, Ngoại trưởng Mike Pompeo đã thông báo một sự đổi mới trong cách tiếp cận của Hoa Kỳ đối với Biển Đông, gọi các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với một số địa hình chìm dưới mực nước biển, và lúc nổi lúc chìm là "bất hợp pháp", bác bỏ các tuyên bố chủ quyền rộng lớn trên biển của Trung Quốc, nói rằng hành vi hung hăng của Bắc Kinh là vi phạm quyền của các quốc gia Đông Nam Á đối với những tài nguyên trong vùng biển của họ. Trước đó, Mỹ không chính thức đưa ra quan điểm về bất kỳ tuyên bố chủ quyền lãnh thổ nào ở Biển Đông.

Ngoài ra, hồi tháng 8 chính quyền Trump đã áp đặt các biện pháp trừng phạt lên các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc, mà họ cho là có liên quan đến các hoạt động phi pháp ở Biển Đông. Một số thực thể như Công ty Xây dựng Truyền thông Trung Quốc đã tham gia vào việc nạo vét các rạn san hô và các bãi đá tạo thành các đảo nhân tạo.

Nhưng điều đó dẫn đến sức ép của Mỹ khiến các chính phủ Đông Nam Á lo lắng. Phát biểu với ASEAN vào tháng 9, Pompeo đưa ra trường hợp loại bỏ các công ty Trung Quốc khỏi các nền kinh tế khu vực. Cho đến nay chưa có nước nào trong ASEAN làm như vậy.

Trong khi đó, ở Mỹ, dường như có sự ủng hộ mạnh mẽ về chính trị và công chúng dành cho đường lối cứng rắn đối với Trung Quốc. Theo Pew Research, khoảng 73% người Mỹ có quan điểm bất lợi đối với Trung Quốc.

Tại Quốc hội, cả các nhà lập pháp Đảng Dân chủ và Cộng hòa đều ủng hộ Đạo luật Dân chủ và Nhân quyền Hồng Kông năm 2019, chỉ trích đích danh Trung Quốc vì đã đè bẹp các thể chế dân chủ ở Hồng Kông.

Tương tự, một dự luật đưa ra các biện pháp trừng phạt khắc nghiệt hơn đối với Trung Quốc về hành vi của họ ở Biển Đông cũng có sự đồng tài trợ và ủng hộ của cả lưỡng đảng.

Lời nói của Biden.

Ý kiến ​​của Biden về Trung Quốc - và nhà lãnh đạo tối cao của nước này, Tập Cận Bình - dường như đã trở nên tồi tệ kể từ cuối nhiệm kỳ phó tổng thống của ông. Biden đã tương tác rất nhiều với Phó chủ tịch Tập khi đó, dưới thời chính quyền Obama, nhưng trong một cuộc tranh luận vào tháng 2 này, ông đã gọi ông Tập là một “tên côn đồ”. Ông cũng đã viết một bài báo trên tờ Foreign Affairs vào tháng Ba gọi Trung Quốc là “một thách thức đặc biệt”.

"Tôi đã dành nhiều giờ với các nhà lãnh đạo của nó, và tôi hiểu những gì chúng tôi đang chống lại," ông viết. “Cách hiệu quả nhất để đối mặt với thách thức đó là xây dựng một mặt trận thống nhất gồm các đồng minh và đối tác của Hoa Kỳ, để đối đầu với các hành vi ngang ngược và vi phạm nhân quyền của Trung Quốc”.

Ông ấy để ngỏ khả năng làm việc với Trung Quốc trong các lĩnh vực “nơi mà các lợi ích của chúng ta hội tụ”, nhưng tuyên bố rõ ràng, “Hoa Kỳ cần phải cứng rắn với Trung Quốc”.

Các cố vấn của Biden, và nhiều khả năng là những thành viên nội các, cũng tỏ ra nghiêm khắc đối với hành vi của Trung Quốc trong khu vực.

Khi được chương trình Intelligence Matters của CBS News phỏng vấn vào tháng 9, Antony Blinken, cố vấn trưởng chính sách đối ngoại cho Biden trong chiến dịch tranh cử của ông, và có khả năng được chọn cho một vai trò hàng đầu trong chính quyền, đã gọi Trung Quốc là “thách thức lớn nhất mà chúng ta phải đối mặt từ một quốc gia có nhiều dân tộc rất khác - về kinh tế, công nghệ, quân sự, thậm chí là ngoại giao”, và nói rằng Mỹ cần một liên minh các nước đứng sau nó để tiếp cận Trung Quốc từ một “vị thế của sức mạnh”.

Michele Flournoy, được nhiều người cho là ứng cử viên hàng đầu cho chức Bộ trưởng Quốc phòng của Biden, đã đề xuất rõ ràng về cách chống lại sự tăng cường quân sự của Trung Quốc.

“Nếu quân đội Mỹ có khả năng đe dọa đáng tin cậy để đánh chìm tất cả các tàu quân sự, tàu ngầm và tàu buôn của Trung Quốc ở Biển Đông trong vòng 72 tiếng đồng hồ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể suy nghĩ kỹ trước khi nói, phát động phong tỏa hoặc xâm lược Đài Loan”, cô ấy đã viết trong bài báo của riêng mình trên tờ Foreign Affairs hồi tháng Sáu.

Một dấu hiệu khác cho thấy chính quyền Biden có thể thực hiện chính sách của Trump đối với khu vực là khi ông thực hiện một cuộc gọi sau bầu cử với Thủ tướng Úc Scott Morrison, nhóm chuyển tiếp của ông đã đưa ra một tuyên bố nói rằng Biden hướng đến hợp tác để “duy trì một khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương an toàn và thịnh vượng. ”

Thuật ngữ “Ấn Độ - Thái Bình Dương” đã được chính quyền Trump bao gồm và trở thành nền tảng cho khái niệm “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương Tự do và cởi mở”, qua đó cung cấp nhiều nhân tố căn bản cho cách tiếp cận của Mỹ đối với Biển Đông và chỉ trích hành vi của Trung Quốc ở đó .

Việc Biden sử dụng cụm từ này có thể là một dấu hiệu cho thấy rằng trong khi nhiều phần trong chính sách đối ngoại của ông sẽ khác với chính sách đối ngoại của người tiền nhiệm, một số điều vẫn sẽ không thay đổi.

_ Drake Long, Phóng viên về Biển Đông của đài Á châu Tự do.


Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.