Cạnh tranh với Trung Quốc có thể ngắn gọn và gay gắt.

Nguy cơ chiến tranh lớn nhất ở trong thập kỷ tới.

Đại lễ đường nhân dân ở Bắc Kinh, tháng 3 năm 2007….Jason Lee / Reuters

Michael Beckley và Hal Brands…Ngày 17 tháng 12 năm 2020…….Theo Foreign Affairs

Trần H Sa lược dịch.

Trong giới chính sách đối ngoại, người ta thường hiểu rằng cuộc cạnh tranh siêu cường Mỹ - Trung là một “cuộc chạy đua marathon” có thể kéo dài một thế kỷ. Nhưng giai đoạn sắc nét nhất của cuộc cạnh tranh đó sẽ là một cuộc chạy nước rút trong một thập kỷ. Cuộc tranh giành quyền lực tối cao của Trung-Mỹ sẽ không sớm được giải quyết. Tuy nhiên, lịch sử và đường đi gần đây của Trung Quốc cho thấy, thời điểm nguy hiểm tối đa chỉ trong vòng vài năm nữa thôi.

Trung Quốc đã bước vào một thời kỳ đặc biệt nguy hiểm với tư cách là một cường quốc đang trỗi dậy : họ đã có được khả năng phá vỡ trật tự hiện có, nhưng khoảng thời gian thuận lợi để họ hành động có thể đang bị thu hẹp. Cán cân quyền lực đang chuyển dịch theo hướng có lợi cho Bắc Kinh trong các lĩnh vực cạnh tranh quan trọng giữa Mỹ và Trung Quốc, chẳng hạn như eo biển Đài Loan và cuộc tranh giành mạng lưới viễn thông toàn cầu. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đang phải đối mặt với sự suy giảm kinh tế rõ rệt và phản ứng dữ dội của quốc tế ngày càng tăng.

Tin tốt cho Hoa Kỳ là về lâu về dài, cạnh tranh với Trung Quốc có thể tỏ ra được kiểm soát tốt hơn so với nhiều người bi quan tin tưởng. Một ngày nào đó, người Mỹ có thể coi thường Trung Quốc theo cách mà hiện nay họ nhìn Liên Xô - như một đối thủ nguy hiểm mà sức mạnh bên ngoài của nó che giấu cho sự trì trệ và tình trạng dễ bị tổn thương bên trong. Tin xấu là trong vòng 5 đến 10 năm tới, tốc độ đối đầu Trung-Mỹ sẽ diễn ra gay gắt, và viễn cảnh chiến tranh là một hiện thực đáng sợ, khi Bắc Kinh bị cám dỗ lao vào việc tranh giành lợi ích địa chính trị. Hoa Kỳ vẫn cần một chiến lược dài hạn dành cho cuộc cạnh tranh kéo dài. Nhưng trước tiên nó cần một chiến lược ngắn hạn để vượt qua khu vực nguy hiểm.

NHỮNG LÁ CỜ ĐỎ.

Nhiều cuộc tranh luận về chính sách Trung Quốc của Washington tập trung vào những nguy cơ mà Trung Quốc sẽ gây ra với tư cách là một đối thủ ngang hàng vào cuối thế kỷ này. Tuy nhiên, trên thực tế Hoa Kỳ phải đối mặt với một mối đe dọa cấp bách hơn và có thể thay đổi đột ngột hơn : một Trung Quốc vốn đã hùng mạnh nhưng không an toàn bị ngáng đường bởi sự tăng trưởng đang chậm lại và sự thù địch ở nước ngoài đang gia tăng.

Trung Quốc có đủ tiền và sức lực để thách thức Hoa Kỳ trong các lĩnh vực then chốt. Nhờ tăng trưởng nhanh trong nhiều thập kỷ, Trung Quốc tự hào có nền kinh tế lớn nhất thế giới (tính theo sức mua tương đương), thặng dư thương mại, dự trữ tài chính, số lượng tàu hải quân và lực lượng tên lửa thông thường. Các khoản đầu tư của Trung Quốc trải dài trên toàn cầu và Bắc Kinh đang thúc đẩy ưu thế trong các công nghệ chiến lược như viễn thông 5G và trí tuệ nhân tạo (AI). Cộng thêm 4 năm trật tự thế giới do Mỹ đứng đầu bị xáo trộn dưới thời Tổng thống Donald Trump, không có gì ngạc nhiên khi Bắc Kinh đang kiểm tra hiện trạng từ Biển Đông đến biên giới với Ấn Độ.

Tuy nhiên, khoảng thời gian thuận lợi của Trung Quốc có thể đang bị đóng lại nhanh chóng. Kể từ năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Trung Quốc đã giảm hơn một nửa và năng suất giảm 10%. Trong khi đó, nợ đã tăng gấp 8 lần và đang trên đà tăng lên với tổng cộng 335% GDP vào cuối năm 2020. Trung Quốc có rất ít hy vọng đảo ngược xu hướng này, vì nước này sẽ mất 200 triệu người trong độ tuổi lao động và có 300 triệu người cao niên trong 30 năm tới. Và khi tăng trưởng kinh tế sụp đổ, những nguy hiểm của bất ổn xã hội và chính trị gia tăng. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết điều này : Chủ tịch Tập Cận Bình đã có nhiều bài phát biểu cảnh báo về khả năng sụp đổ theo kiểu Liên Xô, và giới tinh hoa Trung Quốc đang chuyển tiền và con cái ra nước ngoài.

Trong khi đó, tình cảm chống Trung Quốc trên toàn cầu đã tăng vọt đến mức chưa từng thấy kể từ vụ thảm sát tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989. Gần một chục quốc gia đã đình chỉ hoặc hủy bỏ việc tham gia vào các dự án Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường (BRI). 16 quốc gia khác, bao gồm tám trong số mười nền kinh tế lớn nhất thế giới, đã cấm hoặc hạn chế nghiêm trọng việc sử dụng các sản phẩm Huawei trong mạng 5G của họ. Ấn Độ đã quay lưng chống lại Trung Quốc kể từ khi một cuộc đụng độ ở biên giới chung của họ đã khiến 20 binh sĩ thiệt mạng vào tháng Sáu. Nhật Bản đã tăng cường chi tiêu quân sự, biến tàu đổ bộ thành tàu sân bay và bố trí các bệ phóng tên lửa dọc theo quần đảo Ryukyu gần Đài Loan. Liên minh châu Âu đã coi Trung Quốc là “ đối thủ có hệ thống”; Vương quốc Anh, Pháp và Đức đang gởi hải quân tuần tra để chống lại sự bành trướng của Bắc Kinh ở Biển Đông và Ấn Độ Dương. Xét trên nhiều phương diện, Trung Quốc đang phải đối mặt với tác hại do chính hành vi của họ tạo ra.

LỊCH SỬ ĂN VẦN VỚI NHAU.

Nhiều người cho rằng những người theo chủ nghĩa xét lại đang gia tăng việc gây ra nguy hiểm lớn nhất cho an ninh quốc tế. Nhưng trong lịch sử, những đứt đoạn kinh khủng nhất đến từ những quyền lực mà đã từng đi lên nhưng dần trở nên lo lắng rằng thời gian của họ không còn nhiều.

Chiến tranh thế giới thứ nhất là một ví dụ kinh điển. Sức mạnh đang lên của Đức đã tạo nên bối cảnh chiến lược cho cuộc xung đột đó, nhưng nỗi lo sợ về sự suy giảm của Đức đã dẫn đến quyết định cuối cùng để chiến tranh nổ ra. Sức mạnh quân sự ngày càng tăng và khả năng cơ động của Nga đã đe dọa sườn phía đông của Đức; các luật mới cưỡng bách tòng quân của Pháp đã thay đổi sự cân bằng ở phương Tây; và một hiệp ước thân thiện chặt chẽ của Pháp-Nga-Anh khiến Đức bị bao vây. Các nhà lãnh đạo Đức đã phải phá vỡ những rủi ro thảm khốc như vậy trong cuộc khủng hoảng tháng 7 vì sợ rằng sự vĩ đại về địa chính trị sẽ lẩn tránh họ nếu họ không nhanh chóng hành động.

Logic tương tự giải thích cho canh bạc chết chóc của đế quốc Nhật Bản vào năm 1941, sau khi Hoa Kỳ cấm vận dầu mỏ và hiện đại hóa vũ khí của hải quân đã khiến Tokyo phải khép lại cánh cửa cơ hội thống trị châu Á - Thái Bình Dương. Trong những năm 1970, sự mở rộng toàn cầu của Liên Xô đạt đến đỉnh điểm khi sự xây dựng quân đội của Moscow sung mãn và sự chậm lại của nền kinh tế Liên Xô đã tạo ra động lực khóa lại các lợi ích địa chính trị.

Do Trung Quốc hiện đang phải đối mặt với cả một dự báo kinh tế tồi tệ và một vòng vây chiến lược đang thắt chặt, vài năm tới có thể cho thấy hỗn loạn rất lớn. Hoa Kỳ rõ ràng cần một chiến lược dài hạn để cạnh tranh với Trung Quốc. Nhưng nó cũng cần phải ngăn chặn con sóng xâm lược và bành trướng đang tiềm tàng của Trung Quốc trong thập kỷ này.

Thời kỳ đầu Chiến tranh Lạnh cung cấp một sự ngang bằng nhau hữu ích. Vào thời điểm đó, các nhà lãnh đạo Mỹ hiểu rằng chiến thắng trong cuộc đấu tranh lâu dài chống Liên Xô đòi hỏi không được thua những trận chiến quan trọng trong ngắn hạn. Kế hoạch Marshall, được công bố vào năm 1947, nhằm ngăn chặn sự sụp đổ kinh tế ở Tây Âu, bởi vì sự đổ vỡ như vậy có thể cho phép Moscow mở rộng quyền bá chủ chính trị của họ trên toàn bộ lục địa. Việc thành lập NATO và hiện đại hóa vũ khí trong Chiến tranh Triều Tiên đã tạo nên một lá chắn quân sự cho phép phương Tây phát triển mạnh mẽ. Tính cấp bách chiến lược là khúc dạo đầu cho sự kiên nhẫn chiến lược: Hoa Kỳ có thể khai thác các lợi thế kinh tế và chính trị lâu dài của mình chỉ khi họ đóng lại các lỗ hổng dễ bị tổn thương ngay lập tức.

Ngày nay, Hoa Kỳ cần một chiến lược 'khu vực nguy hiểm', chiến lược này phải được dựa trên ba nguyên tắc. Thứ nhất, tập trung vào việc chế ngự những thành công ngắn hạn của Trung Quốc mà qua đó sẽ làm thay đổi hoàn toàn cán cân quyền lực dài hạn. Những nguy cơ cấp bách nhất là sự xâm chiếm của Trung Quốc đối với Đài Loan và sự ưu việt của Trung Quốc trong mạng viễn thông 5G. Thứ hai, dựa vào các công cụ và quan hệ đối tác có sẵn hiện nay hoặc trong tương lai gần chứ không phải là dựa vào những tài sản cần nhiều năm để phát triển. Thứ ba, tập trung vào việc làm suy giảm sức mạnh của Trung Quốc một cách có chọn lọc chứ không phải là thay đổi hành vi của Trung Quốc. Dụ dỗ và cưỡng bức thì đứng; tiêu hao có mục đích thì nên. Cách tiếp cận như vậy dẫn đến rủi ro lớn hơn. Nhưng Hoa Kỳ phải hành động quyết đoán ngay bây giờ để ngăn chặn những vòng xoáy thù địch gây nên bất ổn nhiều hơn ở sau này.

ĐÀI LOAN VÀ CÔNG NGHỆ

Ưu tiên hàng đầu của Washington phải là hổ trợ cho Đài Loan được mạnh hơn. Nếu Trung Quốc chiếm được Đài Loan, nó sẽ tiếp cận được với công nghệ đẳng cấp thế giới của hòn đảo, có được “hàng không mẫu hạm không thể chìm” để phóng sức mạnh quân sự ra tây Thái Bình Dương, và có khả năng phong tỏa Nhật Bản và Philippines. Trung Quốc cũng sẽ phá vỡ các liên minh của Hoa Kỳ ở Đông Á và giết chết nền dân chủ duy nhất của dân tộc Trung Hoa trên thế giới. Đài Loan là điểm tựa cho sức mạnh ở Đông Á: được Đài Bắc kiểm soát, hòn đảo này là công sự chống lại sự xâm lược của Trung Quốc; do Bắc Kinh kiểm soát, Đài Loan có thể trở thành căn cứ để Trung Quốc tiếp tục bành trướng lãnh thổ.

Trung Quốc đã dành nhiều thập kỷ để cố gắng mua lại sự thống nhất bằng cách tạo dựng các liên kết kinh tế với Đài Loan. Nhưng người dân Đài Loan đã trở nên quyết tâm hơn bao giờ hết để duy trì nền độc lập trên thực tế của họ. Do đó, Trung Quốc đang vung vẩy đe dọa lựa chọn quân sự của nó. Trong ba tháng qua, các cuộc tuần tra trên không và hải quân của Trung quốc đã phô diễn sức mạnh ở eo biển Đài Loan, mang tính khiêu khích hơn bất kỳ cuộc tuần tra nào trong 25 năm qua. Một cuộc xâm lược hoặc chiến dịch cưỡng chế có thể không sắp xảy ra, nhưng khả năng xảy ra của nó đang tăng lên.

Đài Loan là một pháo đài tự nhiên , nhưng các lực lượng của Đài Loan và Mỹ hiện không được trang bị đầy đủ để bảo vệ nó, bởi vì họ dựa vào số lượng máy bay và tàu chiến tiên tiến được gắn với các căn cứ lớn vốn hết sức hạn chế - lực lượng Trung Quốc có thể vô hiệu hóa bằng một cuộc tấn công bất ngờ trên không và tên lửa. Một số nhà hoạch định chính sách và chuyên gia của Mỹ đang kêu gọi Washington chính thức bảo đảm an ninh cho Đài Loan, nhưng một cam kết như vậy sẽ trở thành lời nói suông nếu không dựa trên một lực lượng phòng vệ mạnh mẽ hơn.

Thay vào đó, Washington nên khai triển hàng loạt bệ phóng tên lửa và máy bay không người lái vũ trang ở gần Đài Loan, và có thể là ở cả Đài Loan. Các lực lượng này sẽ hoạt động như những bãi mìn công nghệ cao, có khả năng gây tổn thất nghiêm trọng cho một cuộc xâm lược hoặc lực lượng phong tỏa của Trung Quốc. Trung Quốc cần kiểm soát các vùng biển và bầu trời xung quanh Đài Loan để đạt được mục tiêu của họ, trong khi Hoa Kỳ chỉ cần chế ngự quyền kiểm soát đó của Trung Quốc. Nếu cần thiết, Hoa Kỳ nên cắt giảm tài trợ cho các nền tảng phóng chiếu sức mạnh tốn kém, chẳng hạn như tàu sân bay, để tài trợ cho việc khai triển nhanh chóng các tên lửa hành trình và mìn thông minh ở gần Đài Loan.

Mỹ cũng cần giúp Đài Loan trang bị lại quân đội để chiến đấu trong thế chiến tranh bất đối xứng với Trung quốc. Đài Loan có kế hoạch mua các kho vũ khí khổng lồ gồm các bệ phóng tên lửa và máy bay không người lái; chuẩn bị cho quân đội của họ triển khai hàng chục nghìn quân đến bất kỳ bãi biển nào ngay lập tức; và tái thiết một lực lượng dự bị hàng triệu người khỏe mạnh được huấn luyện cho chiến tranh du kích. Lầu Năm Góc có thể đẩy nhanh quá trình chuyển đổi này bằng cách trợ cấp các khoản đầu tư của Đài Loan ở các khả năng phi đối xứng, tài trợ đạn dược và mở rộng huấn luyện chung về phòng thủ trên không và phòng thủ ven biển, chống tàu ngầm và chiến tranh mìn bẩy.

Cuối cùng, Hoa Kỳ nên tranh thủ các nước khác trong việc bảo vệ Đài Loan. Nhật Bản có thể sẵn sàng ngăn chặn các phương pháp tiếp cận phía bắc Đài Loan của Trung Quốc trong một cuộc chiến; Ấn Độ có thể cho phép Hải quân Hoa Kỳ sử dụng quần đảo Andaman và Nicobar để cắt đứt nhập khẩu năng lượng của Bắc Kinh; Các đồng minh châu Âu có thể áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế và tài chính nghiêm khắc đối với Trung Quốc trong trường hợp Đài Loan bị tấn công. Hoa Kỳ nên cố gắng thuyết phục các đối tác cam kết công khai thực hiện các kiểu hành động này. Ngay cả khi các biện pháp như vậy không mang tính quyết định về mặt quân sự, chúng có thể răn đe Trung Quốc bằng cách buộc Trung Quốc phải gia tăng thêm nhiều khả năng trên nhiều mặt trận mới có thể tiến hành một cuộc chiến tranh chinh phục Đài Loan.

Hoa Kỳ phải đồng thời hoạt động để ngăn chặn Trung Quốc tạo ra một phạm vi ảnh hưởng công nghệ sâu rộng. Trung Quốc có thể thu được những lợi ích to lớn về tình báo, thắng lợi kinh tế và đòn bẩy chiến lược nếu các công ty Trung Quốc lắp đặt mạng viễn thông 5G trên khắp thế giới. Tương tự như vậy, sự khuếch tán công nghệ giám sát do Trung Quốc sản xuất có thể bảo vệ những kẻ độc tài và gây tổn hại lâu dài cho triển vọng toàn cầu về dân chủ. Trong hai năm qua, một số nền dân chủ tiên tiến đã từ chối Huawei, nhà quán quân quốc gia chính yếu của Trung Quốc. Nhưng Con đường Tơ lụa Kỹ thuật số của Bắc Kinh vẫn phổ biến ở những nơi mà nền dân chủ ít được thiết lập và các sản phẩm giá rẻ của Trung Quốc đặc biệt hấp dẫn. Để kiểm tra sự mở rộng công nghệ của Trung Quốc, Washington nên hạn chế xuất khẩu các công nghệ được sản xuất tại Hoa Kỳ và các nền dân chủ khác mà công nghệ Trung Quốc vẫn phụ thuộc vào. Chúng bao gồm chất bán dẫn, chip AI và các bộ phận điều khiển số của máy tính (CNC). Bằng cách giữ lại các sản phẩm như vậy, Hoa Kỳ và các đồng minh dân chủ của họ có thể làm chậm tiến bộ công nghệ của Bắc Kinh và câu giờ để cung cấp cho các nước đang phát triển các lựa chọn thay thế mạng lưới của Trung Quốc.

Ngoài ra, Hoa Kỳ nên hạn chế tính dễ bị tổn thương của mình bằng cách tách biệt ra khỏi nền kinh tế Trung Quốc với điều kiện có chọn lọc. Khi truyền thông nhà nước Trung Quốc đe dọa , vào tháng 3 năm 2020, sẽ nhấn chìm Hoa Kỳ vào “một biển coronavirus to lớn” bằng cách cấm xuất khẩu vào Hoa kỳ dụng cụ y tế của họ, nó đã nhấn mạnh đòn bẩy cưỡng chế mà ảnh hưởng của Bắc Kinh đối với chuỗi cung ứng mang lại. Để duy trì quyền tự do hành động trong các cuộc khủng hoảng trong tương lai, Hoa Kỳ nên loại bỏ các thành phần của Trung Quốc ra khỏi các vũ khí, khí tài của quân đội Hoa Kỳ, và bảo đảm các nguồn thay thế ở lãnh vực cung cấp y tế quan trọng và đất hiếm. Theo thời gian, Hoa Kỳ có thể hợp tác với các nền dân chủ thân thiện để phát triển các chuỗi cung ứng đáng tin cậy, một động thái mà cũng sẽ bảo vệ các đồng minh và đối tác của Hoa Kỳ khỏi sự ép buộc của Trung Quốc.

KHẨN CẤP, KHÔNG NGU NGỐC

Các chính quyền mới nhậm chức của Hoa Kỳ thường mất nhiều tháng để xem xét các chính sách và lập kế hoạch cho các sáng kiến ​​mà có thể không mang lại kết quả trong nhiều năm. Với những vết thương sâu sắc của đất nước, nhóm chính sách mới có thể bị cám dỗ để giảm nhiệt với Trung Quốc ngay bây giờ, để Hoa Kỳ có thể củng cố nền dân chủ, nền kinh tế và sức khỏe cộng đồng của mình, cho một cuộc cạnh tranh lâu dài phía trước. Nhưng những nhiệm vụ nêu trên cũng quan trọng không kém, Washington không có vui sướng khi chậm trễ về địa chính trị. Khi quan hệ Mỹ-Trung bước vào vùng nguy hiểm, Washington phải tăng cường phòng thủ trước những nguy cơ cấp bách.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ nên kết hợp sức mạnh và sự thận trọng, để tránh gây ra xung đột mà họ tìm cách tránh né. Washington không nên thực hiện các biện pháp quyết liệt hơn nửa, chẳng hạn như cấm vận công nghệ toàn bộ, trừng phạt thương mại trên phạm vi toàn quốc, hoặc thực thi một chương trình hành động bí mật lớn lao để kích động bạo lực bên trong Trung Quốc. Cũng không nên đột ngột gây áp lực lên Trung Quốc ở mọi nơi cùng một lúc. Nếu Bắc Kinh muốn phung phí chi tiêu cho các dự án rất tốn kém nhưng khó thu lợi ở Pakistan hoặc những chệch hướng khác dọc theo BRI, hoặc đầu tư vào các khả năng phóng chiếu sức mạnh mà sẽ không có tác động chiến lược trong nhiều thập kỷ, thì càng tốt. Và mặc dù sẽ là sai lầm nếu cho phép Trung Quốc liên kết hành động chung về COVID-19 hoặc biến đổi khí hậu để kềm chế Mỹ trong cạnh tranh địa chính trị, chính quyền của Tổng thống đắc cử Joe Biden có thể tìm hiểu hợp tác trong các lĩnh vực này, nếu chỉ như là một đối trọng trước sự kình địch sắc bén ở những lãnh vực khác.

Việc điều hướng thành công 'vùng nguy hiểm' sẽ không chấm dứt được cạnh tranh Mỹ - Trung, hơn nữa việc sống sót qua thời kỳ đầu Chiến tranh Lạnh đã khiến sự kình địch đó kết thúc. Ngày nay, phần thưởng cho kỹ xảo khéo léo sẽ chỉ đơn giản là một sự cạnh tranh Trung-Mỹ phần nào ít biến động hơn. Sự cạnh tranh đó có thể vẫn còn trên phạm vi toàn cầu và kéo dài về thời gian. Nhưng khả năng xảy ra chiến tranh có thể mờ dần khi Hoa Kỳ cho thấy Bắc Kinh không thể lật ngược trật tự hiện có bằng vũ lực, và Washington dần dần gia tăng tự tin hơn vào khả năng của mình để làm tốt hơn so với một Trung Quốc đang chậm lại. Bây giờ cũng như trước đây, Hoa Kỳ có thể chiến thắng trong một cuộc cạnh tranh lâu dài, miễn là nó khắc phục được cuộc khủng hoảng sắp tới.


_ MICHAEL BECKLEY là Phó Giáo sư Khoa Chính trị học tại Đại học Tufts và là Học giả thỉnh giảng Jeane Kirkpatrick tại Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ.
_ HAL BRANDS là Giáo sư Xuất sắc về Các vấn đề Toàn cầu tại Trường Nghiên cứu Quốc tế Cao cấp thuộc Đại học Johns Hopkins và là Học giả Thường trú tại Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ.


Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.