Cuộc thử thách gay go của Đông Nam Á.

Khu vực tiết lộ những gì về tương lai cạnh tranh Mỹ-Trung.

Vẫy cờ Trung Quốc và Việt Nam tại Hà Nội, Việt Nam, tháng 11 năm 2017…/ Hoàng Đình Nam / Pool / Reuters

David Shambaugh…Ngày 17 tháng 12 năm 2020….Theo Foreign Affairs

Trần H Sa lược dịch.

Khi Tổng thống đắc cử Joe Biden và chính quyền sắp tới của ông bắt đầu đưa ra chiến lược nhằm quản lý sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, họ cần phải chú ý đến Đông Nam Á. Sự đấu tranh với Trung Quốc hiện đang diễn ra trên toàn thế giới và trên tất cả các lĩnh vực thiết thực — ngoại giao, thương mại, an ninh, hoạt động ảnh hưởng, ý thức hệ , giá trị, giáo dục, khoa học và công nghệ, v…v… Sự cạnh tranh trong các lĩnh vực này ở Đông Nam Á đại diện cho một mô hình thu nhỏ và là điều báo trước về cách nó có thể phát triển ở những nơi khác trên thế giới như thế nào. Kết quả ở đó ít nhất sẽ ảnh hưởng đến phần còn lại của khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương rộng lớn, vốn ngày càng trở thành trung tâm trong các vấn đề quốc tế.

Trong những năm gần đây, một số quốc gia Đông Nam Á dường như bị “lôi kéo theo phong trào” và thiết lập quan hệ chặt chẽ hơn với Bắc Kinh. Nhiều chuyên gia và quan chức trong khu vực và các nơi khác phát hiện ra sự thay đổi cán cân quyền lực và ảnh hưởng, một yếu tố có lợi cho Trung Quốc hơn là Hoa Kỳ. Nhưng các nhà quan sát không nên phóng đại xu hướng này hoặc mong đợi nó tiếp tục vô thời hạn. Trung Quốc vẫn chưa thống trị Đông Nam Á và chắc chắn sẽ không làm được như vậy trong tương lai. Với các chính sách và cách tiếp cận đúng đắn, Washington có thể đối trọng với Bắc Kinh trong khi thúc đẩy lợi ích của chính mình và đóng góp vào sự ổn định, an ninh và phát triển trong khu vực.

TẠI SAO VẤN ĐỀ NẰM Ở ĐÔNG NAM Á.

Cuộc chạy đua có thưởng khá cao ở Đông Nam Á. Đó là một khu vực năng động và chắp nối ngổn ngang, kéo dài trên 1,7 triệu dặm vuông: hơn 3.000 dặm từ đông sang tây và hơn 2.000 dặm từ Bắc xuống Nam. Khu vực này bao gồm 11 quốc gia, trong đó 10 quốc gia là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Với tổng dân số 636 triệu người, Đông Nam Á là một trong những khu vực dân cư đông đúc và tuyệt vời nhất trên hành tinh. Mức độ nhân khẩu học phù hợp với quy mô đa dạng tôn giáo và văn hóa của nó, chừng 240 triệu người Hồi giáo, 140 triệu Phật giáo, 130 triệu Cơ đốc giáo và bảy triệu người theo đạo Hindu sống ở Đông Nam Á. Đây cũng là một khu vực đa nguyên về chính trị, có năm loại hệ thống chính trị khác nhau, từ các quốc gia đảng trị theo chủ nghĩa Lenin đến các nền dân chủ hoàn toàn. Về mặt kinh tế, Đông Nam Á đã trải qua tốc độ tăng trưởng nhanh nhất so với bất kỳ khu vực nào trên thế giới kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Ngày nay, tập thể các thành viên của nó tạo thành nền kinh tế lớn thứ sáu trên thế giới, với tổng GDP danh nghĩa là 2,8 nghìn tỷ USD vào năm 2018.

Tầm quan trọng chiến lược của khu vực là cơ sở địa lý. Eo biển Malacca và Biển Đông là những tuyến đường biển được đi qua nhiều nhất trên thế giới; mỗi năm, khoảng 50.000 tàu, 40% giao dịch hàng hóa của thế giới và 25% nguồn cung cấp dầu của thế giới đi qua chúng. Điều này giúp giải thích sự nhạy cảm về an ninh ngày càng tăng trong khu vực. Đặc biệt, việc Trung Quốc xây dựng các tiền đồn quân sự ở Biển Đông đã làm tăng thêm cảm giác nguy hiểm và tính linh hoạt chiến lược. Kết quả là trong những năm gần đây, mọi quốc gia ASEAN ngoại trừ Campuchia và Lào, đã gia tăng chi tiêu cho mua sắm quốc phòng và quân sự.

ASEAN đã kỷ niệm 50 năm thành lập vào năm 2017. Mặc dù thường xuyên bị chỉ trích vì những thiếu sót của mình, nhưng tổ chức này vẫn có nhiều điều đáng tự hào - đặc biệt là sự vắng bóng của chiến tranh giữa các thành viên kể từ khi cuộc xung đột Campuchia-Việt Nam kết thúc vào giữa những năm 1990. ASEAN cũng đã khá thành công trong việc giải quyết các thách thức an ninh xuyên quốc gia như cướp biển, buôn người, buôn lậu, tội phạm có tổ chức, đại dịch và ô nhiễm môi trường. Tổ chức tự hào về “Phương thức ASEAN”: các quyết định đạt được bằng sự đồng thuận, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và hợp tác tự nguyện. Những chuẩn mực đó đã giúp gắn kết nhóm nhưng cũng cản trở nghiêm trọng khả năng của tổ chức trong việc giải quyết các vấn đề khó khăn và hành động khi cần thiết. Một điểm yếu đặc biệt rõ ràng là không có khả năng điều chỉnh tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông hoặc ngăn chặn hoạt động xây dựng đảo đi kèm quân sự hóa của Trung Quốc trên vùng biển đó.

Khu vực này không còn xa lạ trước sự cạnh tranh giữa các cường quốc. Kết quả là, các quốc gia của nó có kinh nghiệm trong nghệ thuật phòng hộ chiến lược và có khuynh hướng trung lập và không liên kết, do lịch sử thuộc địa của họ. Mặt khác, một số quốc gia Đông Nam Á đã lựa chọn chiến thuật phòng thủ hiện thực truyền thống, áp dụng các chính sách hình thành liên minh hoặc liên kết chiến lược với các cường quốc lớn hơn. Kể từ giữa những năm 1990, ASEAN đã áp dụng cách tiếp cận chủ động và bao gồm trong việc thu hút các cường quốc bên ngoài tham gia các cuộc đối thoại và gặp gỡ đa phương. Một số nhà quan sát chỉ trích các diễn đàn như vậy chỉ là “nói nhiều làm ít" và tạo ra các thỏa thuận phần lớn là không ràng buộc. Tuy nhiên, tới một chừng mực mà các cơ chế này có thể trở thành các biện pháp xây dựng lòng tin nhằm ràng buộc các cường quốc chặt chẽ hơn với khu vực, ít nhất chúng phải được coi là thành công về mặt chính thức.

MẮC KẸT Ở GIỮA

Mặc dù sự cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã bùng phát một thời gian ở Đông Nam Á, nhưng các kế hoạch quân sự giữa Washington và Bắc Kinh đã gia tăng đáng kể sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama ra mắt.chính sách "xoay trục" của ông đối với châu Á vào năm 2011, điều mà đã kích thích Bắc Kinh tăng cường sự hiện diện của nó trong khu vực. Sự vận động chiến lược giữa hai đối thủ tiếp tục phát triển trong suốt những năm Trump. Về phần mình, Trung Quốc đã tăng cường can dự vào khu vực, đặc biệt là thông qua Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường (BRI) được ca tụng, nhằm tìm cách mở rộng đáng kể các liên kết kinh tế và thương mại vốn đã rộng rãi của Bắc Kinh. Trung Quốc cũng tăng cường các hoạt động tiếp cận ngoại giao, giao lưu văn hóa và tạo ảnh hưởng trong toàn khu vực. Thách thức đối với tất cả các nước trong khu vực là điều hướng các quan hệ ngày càng chặt chẽ với Bắc Kinh, mà không bị trở nên quá phụ thuộc. Như một nhà ngoại giao cao cấp của Thái Lan đã nói với tôi tại Bangkok: “Đã quá muộn để người Thái chúng tôi thoát khỏi vòng tay của Trung Quốc — chúng tôi chỉ đang cố gắng để không bị nó bóp nghẹt”.

Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều nhận thấy lợi ích thiết thực trong việc xích lại gần Bắc Kinh, và cho đến nay họ chưa nhận thấy hậu quả thực sự nào từ Washington, khi làm như vậy. Như một quan chức cấp cao trong Bộ Ngoại giao Malaysia giải thích với tôi, “Chúng tôi không có cách tiếp cận ý thức hệ với Trung Quốc, chỉ thực dụng và mang tính giao dịch. Trung Quốc cần bạn bè và chúng tôi có tư cách là bạn bè. Cái giá phải trả cho chúng tôi khi đến gần Trung Quốc là gì ư ? Mỹ có thể làm gì đó với nó ? ”

Xu hướng "bị lôi kéo theo phong trào" này là có thật và quan trọng - nhưng không nên phóng đại. Thật vậy, một số yếu tố có thể góp phần vào việc đảo ngược nó trong những năm tới. Thứ nhất, Bắc Kinh hoàn toàn có khả năng trịch thượng và cường điệu quá tay, bằng cách trở nên quá khắt khe và bóc lột. Bằng chứng cho hành vi này đã có thể được tìm thấy trong các tương tác của Trung Quốc với Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Ngay cả ở quốc gia dựa dẫm vào Trung Quốc là Campuchia, đang có sự bất bình bị kềm chế trong xã hội, bởi làn sóng đầu tư của Trung Quốc vào các hoạt động mua đất, đánh bạc và các dự án xây dựng. Chính phủ Indonesia rất lo ngại về khoảng 30.000 lao động người Trung Quốc ở nước này, cũng như việc Trung Quốc khai quật khoáng sản từ Kalimantan và Sumatra. Năm 2011, Myanmar bỏ hoang việc xây dựng một con đập do Trung Quốc tài trợ trên sông Irrawaddy đã gây ra sự khiếp đãm về những rủi ro mà nó đặt ra cho môi trường, và điều đó đã khiến hàng chục nghìn dân làng phải di dời. Tương tự như vậy, vào năm 2017, Malaysia đóng băng hầu hết các dự án BRI của mình vì lo ngại về các khoản nợ và chi phí quá cao, tham nhũng, cơ sở hạ tầng không cần thiết và chủ quyền bị xâm phạm. Những trường hợp như vậy phản ánh sự thiếu chú ý và thiếu hiểu biết của Bắc Kinh về tình cảm địa phương, và những phản tác dụng tương tự dường như có khả năng xảy ra ở những nơi khác.

Vụng về của Bắc Kinh là kết quả từ việc các quan chức và các nhà ngoại giao Trung Quốc sống trong bong bóng tuyên truyền và lồng cách ly của riêng họ, không quan tâm đến cách Trung Quốc được nhìn nhận như thế nào trong khu vực. Các cơ quan tình báo của Bắc Kinh cũng có sự hiểu biết đáng ngờ về khu vực, vì họ có xu hướng tập trung vào giới tinh hoa thương mại và chính trị và cộng đồng người gốc Hoa chứ không phải là tìm hiểu những nghi ngờ và bất mãn của địa phương, xã hội dân sự, xu hướng chính trị, chính trị dân tộc và những đặc thù phức tạp của các xã hội Đông Nam Á.

Hầu hết người Đông Nam Á có bản sắc hậu thuộc địa sâu sắc; họ nhanh chóng phản ứng trước những quyền lực lớn hơn đang tìm cách thiết lập các mối quan hệ bất đối xứng và hành động với thái độ kiêu ngạo. Họ cũng vẫn có những ký ức tươi mới về các chính sách và hành động có tính chất phá hoại của Trung Quốc ở khu vực vào những năm 1960 và 1970, khi Bắc Kinh tích cực hỗ trợ các cuộc nổi dậy của cộng sản ở mọi quốc gia trong khu vực. Và các chính phủ cùng công chúng Đông Nam Á vẫn nhạy cảm sâu sắc với lịch sử ủng hộ của Trung Quốc dành cho các thành viên người gốc Hoa ở khu vực — đặc biệt là tại Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam, những nơi mà họ ngày càng trở thành mục tiêu trong các hoạt động gây ảnh hưởng của Bắc Kinh.

MỘT CƯỜNG QUỐC KHÔNG ĐƯỢC ƯA CHUỘNG.

Khi Trung Quốc mở rộng dấu chân của mình trong khu vực, nhiều nhà quan sát cho rằng sức mạnh và ảnh hưởng của Mỹ đang yếu đi và giảm đi nhanh chóng. Đây là một nhận thức sai lầm. Dấu ấn về văn hóa, kinh tế và an ninh của Hoa Kỳ trên khắp Đông Nam Á vẫn còn rất lớn. Trong hầu hết các lãnh vực, nó thậm chí còn lớn hơn của Trung Quốc.

Đúng thế, sự chú ý ngoại giao không nhất quán của Washington là một trong những mắt xích yếu nhất cho vị thế của Mỹ trong khu vực, vì các quan chức cao cấp của Mỹ hiếm khi xuất hiện trong khu vực. Nhưng trong các lĩnh vực khác, Hoa Kỳ sở hữu sức mạnh toàn diện. Sự hiện diện quân sự và mạng lưới các đối tác an ninh của Mỹ hoạt động rộng khắp và sâu sắc. Quyền lực mềm của Mỹ - đặc biệt trong văn hóa và giáo dục đại chúng - vẫn mạnh mẽ. Sự hiện diện thương mại của nó lâu đời và rất lớn: hơn 4.200 công ty Hoa Kỳ hiện đang hoạt động ở Đông Nam Á. Tổng hợp lại, các nước ASEAN hiện là đối tác thương mại lớn thứ tư của Hoa Kỳ trên toàn thế giới, chiếm khoảng 350 tỷ đô la thương mại vào năm 2018.

Con số này không sánh được với 587,8 ​​tỷ USD thương mại của Trung Quốc với các nước ASEAN trong năm 2018, nhưng hầu như không đáng kể. Ấn tượng hơn và ít được đánh giá cao hơn là lượng tích lũy đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào các nước ASEAN, hiện đạt tổng cộng 329 tỷ đô la - nhiều hơn cả Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cộng lại. Theo ASEAN, trên cơ sở hàng năm, đầu tư trực tiếp của Mỹ vào khu vực này gần như gấp đôi so với Trung Quốc : 24,9 tỷ USD của Mỹ và 13,7 tỷ USD của Trung Quốc, vào năm 2017.

Khi vị thế của Mỹ ở Đông Nam Á được kiểm tra thực nghiệm và đo lường một cách toàn diện, các lợi thế so sánh và sức mạnh nội tại của Washington trở nên rõ ràng. Hơn nữa, các cuộc điều tra dư luận cho thấy một nguồn cung cấp nhận thức tích cực về Hoa Kỳ trong số đông công chúng Đông Nam Á (mặc dù, song song với xu hướng toàn cầu, đã giảm đáng kể trong thời Trump). Tuy nhiên, sức mạnh của vị thế Hoa Kỳ sẽ là một điều ngạc nhiên đối với bất kỳ ai chỉ sử dụng phương tiện truyền thông khu vực, điều này duy trì những câu chuyện phổ biến rằng Trung Quốc là cường quốc thống trị ở Đông Nam Á. Trên thực tế, Trung Quốc là một cường quốc được đánh giá quá cao và Hoa Kỳ là một cường quốc bị đánh giá thấp hơn.

ĐỪNG LOẠI TRỪ WASHINGTON.

Tất nhiên, sẽ là sai lầm khi đánh giá quỹ đạo có thể có của khu vực nếu chỉ xem xét Bắc Kinh và Washington. ASEAN và các quốc gia thành viên riêng lẻ có khả năng hiệu chỉnh lại, ở một mức độ nào đó, các mối liên kết bên ngoài của họ. ASEAN không phải là một bên thụ động; nó có cơ quan riêng của mình và trong lịch sử đã chứng tỏ bản thân rất giỏi trong việc điều động và phòng vệ. Câu hỏi đặt ra lần này là: Với sức mạnh và ảnh hưởng ngày càng tăng của Bắc Kinh trong khu vực cùng sự chú ý của Washington ở mức chất lượng rời rạc, liệu ASEAN có thể sẽ duy trì được sự tự chủ và linh hoạt của mình - hay Bắc Kinh sẽ lần hồi tiêu diệt nó dần dần ?

Các cường quốc tầm trung ở nơi khác trong châu Á có thể giúp ASEAN tránh bị rơi vào gọng kìm giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Đặc biệt, Nhật Bản là một nước đóng vai trò quan trọng trong kinh tế và quyền lực mềm ở Đông Nam Á, và Tokyo gần đây đang tăng cường hợp tác an ninh với một số quốc gia ASEAN. Ấn Độ cũng đang nhanh chóng mở rộng vị thế của mình ở Đông Nam Á, tương xứng với chính sách “Hành động hướng Đông” của Thủ tướng Narendra Modi. Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in cũng đã công bố "chính sách hướng Nam" cho đất nước của ông trong khu vực. Với sự gần gũi và liên kết thương mại của Australia với khu vực, Canberra tự cho mình có mối quan hệ đặc biệt với nhiều thành viên ASEAN. Ngay cả Nga cũng đang cố gắng đóng một vai trò lớn hơn trong khu vực. Những tác nhân này càng làm phức tạp thêm bàn cờ khu vực thì càng làm cho khả năng thống trị của Trung Quốc ít có khả năng.

Do đó, bất chấp lực hấp dẫn chuyển dịch rõ ràng về phía Trung Quốc của Đông Nam Á, cái chết vẫn chưa được đúc kết. Một trong những lợi thế so sánh của Hoa Kỳ trong cạnh tranh với Trung Quốc (ở Đông Nam Á và các nơi khác) là ở chính Trung Quốc. Sự bắt nạt ngông cuồng của Bắc Kinh, chính sách ngoại giao hâm mộ kiểu “chiến binh sói”, bong bóng tuyên truyền, không chú ý đến các mối quan tâm của địa phương, và không có khả năng đưa ra những lời chỉ trích một cách xây dựng, tất cả đều làm suy yếu sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong nhiều trường hợp, điều tốt nhất mà Washington nên làm là đơn giản để cho Bắc Kinh quá khích và khiến những nước khác xa lánh. Nếu chính quyền Biden đặt khu vực trở thành ưu tiên và tái hội nhập với chủ tâm và sự kiên định trước sau như một (đó là những gì người Đông Nam Á tìm kiếm), thì Trung Quốc có thể trở thành đối trọng - và người Đông Nam Á có thể tận hưởng những gì tốt nhất của cả hai thế giới.


_ DAVID SHAMBAUGH là Giáo sư thuộc Gaston Sigur về Nghiên cứu Châu Á, Khoa học Chính trị và Các vấn đề Quốc tế, và là Giám đốc Chương trình Chính sách Trung Quốc tại Đại học George Washington. Bài viết này được chuyển thể từ cuốn sách của ông "Nơi các cường quốc gặp gỡ: Mỹ và Trung Quốc ở Đông Nam Á (Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2020).


Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.