Mỹ có thể hổ trợ trật tự châu Á mạnh lên như thế nào.

Chiến lược khôi phục sự cân bằng và tính hợp pháp.

Quân nhân Hoa Kỳ và Trung Quốc ở Nam Kinh, Trung Quốc, tháng 11 năm 2018….Aly Song / Reuters

Kurt M. Campbell và Rush Doshi….12 tháng 1, 2021…Theo Foreign Affairs

Trần H Sa lược dịch.

Trong suốt nửa thế kỷ trỗi dậy chưa từng có của châu Á, Henry Kissinger là một nhân vật then chốt, điều hành sự mở cửa của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc vào đầu những năm 1970 và sau đó tiếp tục là tác giả các bộ sách viết về chiến lược của Trung Quốc và trật tự thế giới. Nhưng vào thời điểm chuyển giao này ở châu Á, những quan sát phù hợp nhất của Kissinger có thể được tìm thấy ở một nơi đáng ngạc nhiên hơn nhiều : một luận án tiến sĩ về châu Âu vào thế kỷ 19, mà đã phải vật lộn để tìm nhà xuất bản khi Kissinger viết nó, nhiều năm trước khi ông ấy nổi tiếng.

Cuốn sách đó (A World Restored ) 'Một thế giới được khôi phục: Metternich (1), Castlereagh (2) và những vấn đề hòa bình, 1812–1822' , đã khám phá cách mà hai chính khách châu Âu - một người Anh, người kia là người Áo - đã làm việc để củng cố mối quan hệ đang bị xích mích giữa các quốc gia lục địa hàng đầu vào cuối thời Chiến tranh Napoléon. Những nỗ lực của họ đã đặt nền móng cho cái gọi là hòa bình lâu dài của lục địa — 100 năm yên bình và thịnh vượng, từ năm 1815 đến Thế chiến thứ nhất. Những hiểu biết sâu sắc của cuốn sách có tiếng vang đặc biệt đối với Ấn Độ - Thái Bình Dương hiện nay, với chính trị của các cường quốc đang tăng cao ở đó và trật tự khu vực bị căng thẳng .

Hàm ý chính của 'A World Restored' đối với ngày nay không phải là Ấn Độ - Thái Bình Dương yêu cầu một phiên bản của chính chế độ công quản của các cường quốc Châu Âu hay một sự hòa hợp Mỹ - Trung hiện đại. Thay vào đó, trật tự khu vực hoạt động tốt nhất khi chúng duy trì được cả sự cân bằng và tính hợp pháp, và Washington nên nỗ lực để thúc đẩy cả hai điều đó ở châu Á. Kissinger cho rằng chính sự tập trung của Lãnh chúa Castlereagh vào sự cân bằng, kết hợp với sự tập trung của Klemens von Metternich vào tính hợp pháp của trật tự trong con mắt của các quốc gia thành viên, đã thiết lập được một hệ thống ổn định.

Một chiến lược cho Ấn Độ - Thái Bình Dương ngày nay sẽ có lợi khi kết hợp ba bài học từ giai đoạn lịch sử này của châu Âu : sự cần thiết của một cân bằng quyền lực; nhu cầu về một trật tự mà các quốc gia trong khu vực công nhận là hợp pháp; và sự cần thiết của một liên minh gồm các đồng minh và các đối tác để giải quyết thách thức của Trung Quốc đối với cả sự cân bằng và tính hợp pháp của khu vực. Cách tiếp cận như vậy có thể bảo đảm rằng tương lai của Ấn Độ - Thái Bình Dương sẽ được đặc trưng bởi sự cân bằng và sự cởi mở của thế kỷ XXI, chứ không phải là nạn bá quyền và tranh giành phạm vi ảnh hưởng của thế kỷ XIX.

QUÁ KHỨ CỦA CHÂU ÂU, TƯƠNG LAI CỦA CHÂU Á?

Vấn đề là liệu “quá khứ của châu Âu có phải là tương lai của châu Á hay không,” như giáo sư Aaron Friedberg của Princeton đã đặt câu hỏi cách đây hai thập kỷ, vẫn là một câu hỏi cấp bách. Cả châu Âu ở thế kỷ 19 và Ấn Độ - Thái Bình Dương ngày nay đều có các đặc tính : một quốc gia đang trỗi dậy, các cường quốc đối đầu, có nhiều con đường dẫn đến xung đột, chủ nghĩa dân tộc ngày càng gia tăng, xung đột giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa độc tài, và các thể chế khu vực mong manh.

Tuy nhiên, sự khác biệt cũng là vấn đề quan trọng. Không giống như châu Âu trước chiến tranh, Ấn Độ - Thái Bình Dương không nổi lên sau những biến động cách mạng và chiến tranh đổ nát giữa các cường quốc. Thay vào đó, khu vực đã tận hưởng “ nền hòa bình lâu dài ” trong 40 năm của riêng mình. Nhìn chung, châu Á cũng phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, tài chính và công nghệ hơn nhiều so với châu Âu trong thế kỷ XIX. Ví dụ, phần lớn thương mại của Ấn Độ -Thái Bình Dương được thực hiện trong nội bộ, và chính khu vực là trung tâm của sự thịnh vượng và tăng trưởng của Mỹ. Thách thức đối với chính sách của Hoa Kỳ không phải là tạo ra trật tự để khỏi hỗn loạn như các nhà lãnh đạo châu Âu thế kỷ 19, mà là hiện đại hóa và củng cố các yếu tố của một hệ thống hiện có.

Một yếu tố đặc biệt khác của Ấn Độ - Thái Bình Dương là “hệ điều hành” đã phát triển của nó, không giống như trật tự được tạo ra ở châu Âu trước chiến tranh, là thúc đẩy thương mại giống như ngăn chặn xung đột. Được xây dựng sau Thế chiến thứ hai, hệ thống của khu vực là sự kết hợp của các thỏa thuận pháp lý, an ninh và kinh tế mà đã giải phóng hàng trăm triệu người khỏi đói nghèo, thúc đẩy vô số tiến bộ thương mại và dẫn đến sự tích lũy của cải đáng kể. Trọng tâm của nó là các nguyên tắc đã được kiểm nghiệm qua thời gian : tự do hàng hải, chủ quyền bình đẳng, minh bạch, giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, tính tôn nghiêm của các hợp đồng, thương mại xuyên biên giới, và hợp tác trên các thách thức xuyên quốc gia. Hơn nữa, cam kết lâu dài của Hoa Kỳ đối với các lực lượng quân sự tấn công đã giúp nhấn mạnh những nguyên tắc này.

Tuy nhiên, có hai thách thức cụ thể đe dọa sự cân bằng và tính hợp pháp của trật tự. Thứ nhất là sự trỗi dậy về kinh tế và quân sự của Trung Quốc. Riêng Trung Quốc đã chiếm một nửa GDP và một nửa chi tiêu quân sự của khu vực, một khoảng cách chỉ tăng lên kể từ đại dịch COVID-19. Và giống như bất kỳ quốc gia đang trỗi dậy nào, Trung Quốc tìm cách định hình lại môi trường xung quanh và bảo đảm khu vực chiều theo các lợi ích của mình. Cách thức Bắc Kinh theo đuổi các mục tiêu này - xây dựng đảo ở Biển Đông, xâm nhập Biển Hoa Đông, xung đột với Ấn Độ, đe dọa xâm lược Đài Loan, và đàn áp nội bộ ở Hồng Kông và Tân Cương - làm suy yếu các quy tắc quan trọng của hệ thống khu vực đã được thiết lập. Hành vi này, kết hợp với việc Trung Quốc ưa thích cưỡng bức kinh tế, gần đây nhất là nhắm vào Australia, có nghĩa là nhiều nguyên tắc tổ chức của trật tự đang gặp rủi ro.

Thách thức thứ hai đáng ngạc nhiên hơn vì nó đến từ nhà kiến ​​trúc sư ban đầu và cũng là nhà tài trợ lâu năm của hệ thống hiện tại - Hoa Kỳ. Bất chấp những nỗ lực kiên quyết của các chuyên gia châu Á trong chính quyền Trump nhằm giảm thiểu thiệt hại, bản thân Tổng thống Donald Trump đã làm căng thẳng hầu như mọi yếu tố trong hệ thống điều hành của khu vực. Ông thúc ép các đồng minh như Nhật Bản và Hàn Quốc đàm phán lại các thỏa thuận chia sẻ chi phí cho các căn cứ và quân đội Mỹ, đồng thời đe dọa sẽ rút toàn bộ lực lượng nếu ông ta không hài lòng với các điều khoản mới. Cả hai động thái này đều làm suy yếu các liên minh mà Ấn Độ-Thái Bình Dương cần phải duy trì sự cân bằng. Nói chung Trump cũng vắng mặt trong các tiến trình đa phương của khu vực và các cuộc đàm phán kinh tế khu vực, nhường cơ sở cho Trung Quốc viết lại các quy tắc trọng yếu trong nội dung và tính hợp pháp của trật tự. Cuối cùng, ông Trump tỏ ra ung dung về việc ủng hộ dân chủ và nhân quyền theo những cách vốn làm suy yếu các đối tác gần gủi của Hoa Kỳ và khuyến khích chính quyền Trung Quốc táo bạo ở Hồng Kông và Tân Cương.

Kết hợp này giữa sự quyết đoán của Trung Quốc và tư tưởng mâu thuẩn của Hoa Kỳ đã khiến khu vực này rơi vào tình trạng thất thường. Ấn Độ - Thái Bình Dương đương đại có cảm giác giống như châu Âu trước chiến tranh - mất cân bằng, trật tự rạn nứt và không có liên minh rõ ràng để giải quyết vấn đề. Nếu chính quyền tiếp theo của Hoa Kỳ muốn duy trì lâu dài hệ thống điều hành khu vực mà đã tạo ra hòa bình và thịnh vượng chưa từng có, nó cần phải bắt đầu bằng cách lần lượt giải quyết từng xu hướng này.

KHÔI PHỤC SỰ CÂN BẰNG.

Kissinger viết trong ' A World Restored' , “Cán cân quyền lực là cách diễn đạt kinh điển về bài học lịch sử rằng, không có trật tự nào là an toàn nếu không có các biện pháp bảo vệ dùng bạo lực chống lại sự xâm lược.” Áp dụng cho khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, một cảnh báo như vậy là có thể đoán trước được : sức mạnh vật chất ngày càng tăng của Trung Quốc đã thực sự làm mất ổn định sự cân bằng mong manh của khu vực và thúc đẩy chủ nghĩa phiêu lưu tranh giành lãnh thổ của Bắc Kinh. Nếu không được kiểm soát, hành vi của Trung Quốc có thể chấm dứt nền hòa bình lâu dài của khu vực.

Sự mất cân bằng về mặt vật chất ngày càng tăng giữa Trung Quốc và phần còn lại của khu vực là đáng chú ý. Bắc Kinh chi cho quân sự nhiều hơn tất cả các nước chung quanh Ấn Độ - Thái Bình Dương cộng lại. Trung Quốc đã đầu tư vào vũ khí chống tiếp cận / chế ngự khu vực (bao gồm tên lửa siêu thanh và mìn “thông minh”) đe dọa khả năng can thiệp của Mỹ vào khu vực. Nó cũng đã đầu tư vào những khả năng đi biển xa bờ, đổ bộ và phóng chiếu sức mạnh mà Bắc Kinh có thể sử dụng cho các nhiệm vụ tấn công chống lại Ấn Độ, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam và những nước khác.

Để đối phó với những mối đe dọa này, Hoa Kỳ cần phải có một nỗ lực có ý thức để ngăn chặn chủ nghĩa phiêu lưu của Trung Quốc. Washington có thể bắt đầu bằng cách loại bỏ sự tập trung duy nhất vào tính ưu việt và các nền tảng đắt tiền mà dễ bị tổn thương như tàu sân bay đã được thiết kế để duy trì nó. Thay vào đó, Hoa Kỳ nên ưu tiên ngăn chặn Trung Quốc thông qua các khả năng tương đối rẻ tiền và bất đối xứng mà Bắc Kinh đã sử dụng từ lâu. Điều này có nghĩa là đầu tư vào tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo thông thường tầm xa, máy bay tấn công không người lái có căn cứ trên tàu sân bay và các phương tiện dưới nước, tàu ngầm trang bị tên lửa dẫn đường và những vũ khí tấn công tốc độ cao. Những phát triển này sẽ làm phức tạp các tính toán của Trung Quốc và buộc Bắc Kinh phải đánh giá lại liệu các hành động khiêu khích mạo hiểm của họ có thể thành công hay không.

Tuy nhiên, cân bằng khu vực thực sự cũng đòi hỏi phải có hành động phối hợp với các đồng minh và đối tác. Hoa Kỳ cần giúp các quốc gia ở Ấn Độ - Thái Bình Dương phát triển các năng lực bất đối xứng của riêng họ để ngăn chặn hành vi của Trung Quốc. Mặc dù Washington nên duy trì sự hiện diện ở tiền phương, nhưng Washington cũng cần làm việc với các quốc gia khác để phân tán lực lượng của Mỹ trên khắp Đông Nam Á và Ấn Độ Dương. Điều này sẽ làm giảm sự phụ thuộc của Mỹ vào một số ít các cơ sở dễ bị tổn thương ở Đông Á. Cuối cùng, Hoa Kỳ nên khuyến khích các mối quan hệ đối tác mới về quân sự và tình báo giữa các quốc gia trong khu vực, trong khi vẫn làm sâu sắc hơn các mối quan hệ đó mà Hoa Kỳ đóng vai trò chính — đặt một “vòng trang sức” cho hệ thống liên minh khu vực thân thuộc với trung tâm là Hoa Kỳ và các phát ngôn viên là của đồng minh.

KHÔI PHỤC TÍNH HỢP PHÁP

Tuy nhiên, chỉ cân bằng quân sự và vật chất sẽ không duy trì một trật tự khu vực được đổi mới. Kissinger viết rằng sự ổn định của bất kỳ hệ thống quốc tế nào, cuối cùng dựa vào điều mà ông gọi là “tính hợp pháp được chấp nhận chung”. Bất kỳ khuôn khổ quốc tế nào cũng cần được các cường quốc bên trong nó mua lấy và kiểm soát. Ở đây, Hoa Kỳ sẽ một lần nữa cần phải đóng một vai trò trung tâm.

Không giống như châu Âu trước chiến tranh, tính hợp pháp ở Ấn Độ - Thái Bình Dương không chỉ là vấn đề chính trị và an ninh quốc tế. Thương mại, công nghệ và hợp tác xuyên quốc gia cũng rất quan trọng. Như Evan Feigenbaum lập luận, có "hai châu Á" cùng nhau tạo nên trật tự của khu vực : một tập trung vào chính trị và an ninh, và một tập trung vào kinh tế. Chủ nghĩa phiêu lưu lãnh thổ của Trung Quốc làm suy yếu chính trị và an ninh khu vực, các chính sách kinh tế mang tính cưỡng chế của nó làm suy yếu kinh tế khu vực, và sự mâu thuẫn của Mỹ dưới thời Trump làm suy yếu cả hai. Nếu những xu hướng đó tiếp tục và các quốc gia Ấn Độ - Thái Bình Dương bắt đầu coi trật tự hiện tại là không hợp pháp, họ có thể bị trôi dạt vào cái bóng của Trung Quốc - đẩy khu vực này vào hướng của thế kỷ 19 chứ không phải theo hướng của thế kỷ 21. Nếu điều đó xảy ra, khu vực năng động có thể bị tách thành các phạm vi ảnh hưởng : các cường quốc bên ngoài bị ngăn cách, các tranh chấp được giải quyết thông qua vũ lực, cưỡng chế kinh tế là quy tắc, các liên minh của Hoa Kỳ suy yếu, và các quốc gia nhỏ hơn không có quyền tự chủ và tự do điều hành đất nước.

Việc đảo ngược những xu hướng này sẽ bị thách thức và đòi hỏi sự khéo léo trong ngoại giao, đổi mới thương mại, và sáng tạo thể chế từ phía các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ. Trong lĩnh vực chính trị và an ninh, việc củng cố tính hợp pháp của trật tự hiện tại, ít nhất sẽ đòi hỏi sự tái tương tác nghiêm túc của Hoa Kỳ : chấm dứt việc tống tiền đồng minh, chấm dứt việc bỏ qua các hội nghị thượng đỉnh khu vực, chấm dứt việc tránh can dự kinh tế và chấm dứt việc tránh xa hợp tác xuyên quốc gia. Tư thế mới này sẽ mang lại cho Hoa Kỳ một vai trò lớn hơn trong khu vực và truyền sự tự tin cho các quốc gia Ấn Độ - Thái Bình Dương trước sức ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc.

Trong lĩnh vực kinh tế, việc củng cố trật tự hiện tại có nghĩa là bảo đảm hệ thống tiếp tục mang lại lợi ích vật chất cho các thành viên, ngay cả khi Trung Quốc ngày càng phát triển tinh vi hơn trong việc sử dụng cây gậy và củ cà rốt kinh tế. Trái ngược với các cuộc đàm phán của châu Âu trước chiến tranh, vốn nhấn mạnh đến biên giới và sự công nhận chính trị; các cuộc đàm phán ở Ấn Độ-Thái Bình Dương chắc chắn sẽ xoay quanh chuỗi cung ứng, tiêu chuẩn, chế độ đầu tư và các hiệp định thương mại. Ngay cả khi Hoa Kỳ nỗ lực phục hồi các ngành công nghiệp nhạy cảm và theo đuổi "sự tách rời có quản lý" để ra khỏi Trung Quốc, họ có thể trấn an các quốc gia khu vực đang cảnh giác rằng, việc chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc thường có nghĩa là chuyển chúng sang các nền kinh tế địa phương khác, tạo ra các cơ hội tăng trưởng mới. Hơn nữa, khi Trung Quốc cung cấp tài chính cho cơ sở hạ tầng thông qua Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường, Hoa Kỳ nên phát triển các cách cung cấp tài chính thay thế và hỗ trợ kỹ thuật.

Đàm phán về vai trò của Bắc Kinh trong trật tự này là yếu tố phức tạp nhất trong nỗ lực tổng thể. Mặc dù các quốc gia Ấn Độ -Thái Bình Dương tìm kiếm sự giúp đỡ của Mỹ để duy trì quyền tự chủ của họ trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhưng họ nhận thấy việc loại trừ Bắc Kinh ra khỏi tương lai sôi động của châu Á là không thực tế và cũng không có lợi. Các quốc gia trong khu vực cũng không muốn bị buộc phải “lựa chọn” giữa hai siêu cường.

Một giải pháp tốt hơn sẽ là Hoa Kỳ và các đối tác thuyết phục Trung Quốc rằng có những lợi ích cho sự cạnh tranh, nhưng hòa bình khu vực được tổ chức xung quanh một số yêu cầu thiết yếu : một vị trí cho Bắc Kinh trong trật tự khu vực; tư cách thành viên của Trung Quốc trong các tổ chức chính yếu của trật tự; một môi trường thương mại có thể dự đoán được nếu quốc gia này chơi đúng luật; và cơ hội cùng hưởng lợi từ sự hợp tác về khí hậu, cơ sở hạ tầng và đại dịch COVID-19. Cho đến nay, việc mua quyền kiểm soát không đáng kể từ Trung Quốc đã đóng một vai trò quan trọng trong thành công của khu vực. Nó sẽ vẫn quan trọng trong những năm tới.

Tuy nhiên, trong các lĩnh vực khác, hành vi của Bắc Kinh chắc chắn sẽ đụng độ với tầm nhìn của Mỹ và châu Á về một trật tự Ấn Độ - Thái Bình Dương. Đáp lại, Washington sẽ phải làm việc với những nước khác để củng cố hệ thống, cung cấp cho Bắc Kinh những khích lệ để tham gia có hiệu quả, và sau đó đưa ra các hình phạt tập thể nếu Trung Quốc quyết định thực hiện các bước đe dọa lớn hơn đối với trật tự. Tuy nhiên, làm như vậy sẽ có nhiều thách thức hơn khi sức mạnh của Trung Quốc tăng lên. Do đó, việc duy trì sự cân bằng và tính hợp pháp của hệ thống sẽ đòi hỏi những liên minh mạnh mẽ của cả các đồng minh và các đối tác — và một mức độ đồng ý và chấp nhận từ phía Trung Quốc.

LIÊN MINH TIẾN LÊN.

Mặc dù ý tưởng Hoa Kỳ nên “làm việc với các đồng minh” gần như là một lời sáo rỗng, nhưng những thách thức để cần làm điều đó là rất đáng kể. Duy trì trật tự Ấn Độ - Thái Bình Dương hiện có chắc chắn sẽ đòi hỏi một liên minh rộng rãi, và chính các thành viên tham gia có thể không thấy giá trị của cách tiếp cận kết hợp như vậy, cho đến khi hệ thống hiện tại bị phá hủy mà không thể phục hồi. Nhu cầu về các đồng minh và đối tác thường chỉ xuất hiện sau khi hiện trạng đã bị đảo ngược.

Kissinger đã quan sát động thái này ở châu Âu hồi thế kỷ 19, nhưng nó được áp dụng tương tự vào ngày nay. Các nhà lãnh đạo châu Âu xa xôi chắc chắn ít lo ngại về sự quyết đoán của Trung Quốc hơn so với các quốc gia Ấn Độ - Thái Bình Dương ở sát nách Trung quốc. Theo đó, thách thức chính mà Hoa Kỳ phải đối mặt là làm cầu nối các cách tiếp cận của châu Âu và cách tiếp cận của khu vực đối với các thách thức của Trung Quốc. Nhiệm vụ đó càng trở nên khó khăn hơn trước sức mạnh kinh tế của Bắc Kinh : tháng trước, Trung Quốc đã sử dụng các nhượng bộ vào phút chót để thành công lôi kéo EU vào một thỏa thuận đầu tư song phương to lớn, bất chấp lo ngại rằng thỏa thuận này sẽ làm phức tạp cách tiếp cận xuyên Đại Tây Dương sẽ được nhất quán dưới thời chính quyền Biden.

Trước những hạn chế này, Hoa Kỳ sẽ cần phải linh hoạt và đổi mới khi xây dựng quan hệ đối tác. Thay vì thành lập một liên minh lớn tập trung vào mọi vấn đề, Hoa Kỳ nên theo đuổi các cơ quan đặc biệt hoặc cụ thể tập trung vào các vấn đề riêng lẻ, chẳng hạn như D-10 do Vương quốc Anh đề xuất (các nền dân chủ G-7 cộng với Úc, Ấn Độ và Hàn Quốc). Những liên minh này sẽ là cấp bách nhất đối với các vấn đề về thương mại, công nghệ, chuỗi cung ứng và tiêu chuẩn.

Tuy nhiên, các liên minh khác có thể tập trung vào việc răn đe quân sự bằng cách mở rộng cái gọi là Bộ tứ hiện nay bao gồm Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hoa Kỳ, đầu tư cơ sở hạ tầng thông qua hợp tác với Nhật Bản và Ấn Độ, và mở rộng nhân quyền thông qua hai chục quốc gia chỉ trích các trại giam giữ của Bắc Kinh ở Tân Cương và cuộc tấn công của nó vào quyền tự trị của Hồng Kông.

Mục đích của các liên minh khác nhau này — và chiến lược rộng lớn hơn này — là tạo ra sự cân bằng trong một số trường hợp, củng cố sự đồng thuận trên các khía cạnh quan trọng của trật tự khu vực ở các liên minh khác, và gửi một thông điệp rằng có những rủi ro cho cách cư xử hiện tại của Trung Quốc. Nhiệm vụ này sẽ là một trong những thách thức lớn nhất trong lịch sử gần đây ở nghệ thuật lãnh đạo đất nước của người Mỹ.

Hai thế kỷ trước, Metternich và Castlereagh là những người bi quan lo lắng về một hệ thống đang bị căng thẳng. Tuy nhiên, ngay cả khi luôn hoài nghi về tham vọng đen tối của các quốc gia và con người, hai chính khách đã thành công trong việc xây dựng một hệ thống bền vững và linh hoạt, qua đó đã mở rộng hòa bình và thịnh vượng vượt xa những gì mà nhiều người nghĩ có thể. Hoa Kỳ và các đồng minh của họ ở Ấn Độ - Thái Bình Dương và trên khắp châu Âu ngày nay, cần có cảm giác lo lắng và tham vọng tương tự. Nếu họ tìm thấy nó, họ có thể bảo đảm rằng một quê nhà tầm khu vực có khoảng một nửa nền kinh tế toàn cầu, một nửa lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu, và một nửa số quốc gia có vũ khí hạt nhân vẫn thịnh vượng, hòa bình và cởi mở - vì lợi ích của tất cả mọi người.


_ KURT M. CAMPBELL là Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành " Asia Group" và là cựu Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ về các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương. Hôm thứ Tư 13/01/2021, Tổng thống đắc cử Mỹ Joe Biden đã bổ nhiệm Kurt M. Campbell làm 'Điều phối viên Ấn Độ - Thái Bình Dương', nhân vật quyền lực thứ ba về chính sách đối phó với Trung quốc, sau cố vấn an ninh quốc gia dự kiến Jake Sullivan và Tổng thống đắc cử Joe Biden.

_ RUSH DOSHI là Giám đốc Sáng kiến ​​Chiến lược Trung Quốc của Viện Brookings, thành viên tại Trung tâm Paul Tsai Trung Quốc của Trường Luật Yale, và là tác giả của cuốn sách sắp xuất bản "Trò chơi lâu dài: Chiến lược vĩ đại của Trung Quốc nhằm thay đổi trật tự của Mỹ".

_ Chú thích :

(1) Klemens von Metternich là một chính trị gia xứ Rhineland và là một trong những nhà ngoại giao quan trọng nhất thế kỷ 19, đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng Ngoại giao của Đế quốc Áo từ 1809 cho tới khi cuộc Cách mạng châu Âu 1848 buộc ông từ chức.

(2) Viscount Castlereagh là Bộ trưởng Ngoại giao Anh , từ năm 1812, ông là trung tâm điều hành liên minh đánh bại Napoléon, là nhà ngoại giao chính của Anh tại Quốc hội Vienna . Castlereagh cũng là lãnh đạo của Hạ viện Anh trong chính phủ Liverpool từ năm 1812 cho đến khi ông tự sát năm 1822.


Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.