Yuval Noah Harari: Bài học từ một năm Covid.

Trong một năm có nhiều đột phá về khoa học - và những thất bại về chính trị - chúng ta có thể học được gì cho tương lai?

© Rafael Heygster / Helena Manhartsberger

Yuval Noah Harari FEBRUARY 26 2021…Theo Financial Times.

Trần H Sa lược dịch.

Chúng ta có thể tóm tắt năm Covid như thế nào từ một quan điểm lịch sử rộng lớn? Nhiều người tin rằng sự thiệt hại khủng khiếp mà coronavirus gây ra chứng tỏ sự bất lực của nhân loại khi đối diện với sức mạnh của thiên nhiên. Trên thực tế, năm 2020 đã cho thấy rằng nhân loại không bất lực chút nào. Dịch bệnh không còn là sức mạnh của tự nhiên mà không thể kiểm soát được. Khoa học đã biến chúng thành một thách thức có thể kiểm soát được.

Vậy tại sao lại có quá nhiều chết chóc và đau khổ? Vì những quyết định chính trị tồi tệ.

Trong các thời đại trước, khi con người phải đối mặt với một bệnh dịch như Cái chết Đen (*), họ không biết cái gì đã gây ra nó hoặc làm thế nào để ngăn chặn nó. Khi đại dịch cúm năm 1918 xảy ra, các nhà khoa học giỏi nhất trên thế giới không thể xác định được loại virus gây chết người này, nhiều biện pháp đối phó được áp dụng đều vô ích và những nỗ lực phát triển một loại vắc-xin hiệu quả đã chứng tỏ là không có hiệu quả.

Với Covid-19 thì rất khác. Hồi chuông cảnh báo đầu tiên về một đại dịch mới tiềm ẩn đã bắt đầu vang lên vào cuối tháng 12 năm 2019. Đến ngày 10 tháng 1 năm 2020, các nhà khoa học không chỉ cô lập được nguyên nhân gây ra virus mà còn giải mã bộ gen của nó và công bố thông tin trên mạng trực tuyến. Trong vòng hơn vài tháng, người ta đã thấy rõ những biện pháp nào có thể làm chậm và ngăn chặn các chuỗi lây nhiễm. Trong vòng chưa đầy một năm, một số loại vắc xin hiệu quả đã được sản xuất hàng loạt. Trong cuộc chiến giữa con người và mầm bệnh, chưa bao giờ con người lại mạnh mẽ đến thế.

Chuyển động cuộc sống trực tuyến.

Bên cạnh những thành tựu chưa từng có của công nghệ sinh học, năm Covid cũng nhấn mạnh sức mạnh của công nghệ thông tin. Trong các thời đại trước đây, loài người hiếm khi có thể ngăn chặn dịch bệnh vì con người không thể theo dõi các chuỗi lây nhiễm trong thời gian thực, và vì chi phí kinh tế của các đợt phong tỏa kéo dài là rất cao. Vào năm 1918, bạn có thể cách ly những người mắc bệnh cúm đáng sợ, nhưng bạn không thể theo dõi sự di chuyển của những người mang mầm bệnh có triệu chứng trước đó hoặc không có triệu chứng. Và nếu bạn ra lệnh cho toàn bộ dân số của một quốc gia phải ở nhà trong vài tuần, điều đó sẽ dẫn đến sự tàn phá kinh tế, suy sụp xã hội và nạn đói hàng loạt.

Ngược lại, vào năm 2020, giám sát kỹ thuật số đã giúp việc theo dõi và xác định chính xác các vật trung gian truyền bệnh dễ dàng hơn nhiều, có nghĩa là việc cách ly có thể chọn lọc hơn và hiệu quả hơn. Quan trọng hơn nữa, tự động hóa và internet đã làm cho việc phong tỏa mở rộng trở nên khả thi, ít nhất là ở các nước phát triển. Trong khi ở một số nơi của thế giới đang phát triển, kinh nghiệm của con người vẫn gợi nhớ về những bệnh dịch trong quá khứ, thì ở phần lớn thế giới phát triển, cuộc cách mạng kỹ thuật số đã thay đổi mọi thứ.

Hãy xem xét lĩnh vực nông nghiệp. Trong hàng nghìn năm, sản xuất lương thực dựa vào sức lao động của con người, và khoảng 90% người dân làm nghề nông. Ngày nay ở các nước phát triển điều này không còn xảy ra nữa. Ở Mỹ, chỉ có khoảng 1,5% người dân làm việc trong các trang trại, nhưng điều đó không chỉ đủ để nuôi sống tất cả mọi người ngồi ở nhà, mà còn đưa Mỹ trở thành nhà xuất khẩu thực phẩm hàng đầu. Hầu như tất cả các công việc đồng áng đều được thực hiện bởi máy móc, chúng miễn nhiễm với bệnh tật. Việc phong tỏa vì vậy chỉ có tác động nhỏ đến việc canh tác.

Những đổi mới của con người đã cơ giới hóa việc sản xuất lương thực.

Hãy tưởng tượng một cánh đồng lúa mì ở đỉnh cao của trận dịch Cái chết Đen. Nếu bạn bảo những người nông dân ở nhà vào thời gian thu hoạch, bạn sẽ bị chết đói. Nếu bạn bảo những người nông dân ra đồng và thu hoạch, họ có thể sẽ gây nhiễm bệnh cho nhau. Nên làm gì đây ?

Bây giờ hãy tưởng tượng một cánh đồng lúa mì tương tự vào năm 2020. Một máy gặt đập liên hợp duy nhất được định hướng bằng GPS có thể thu hoạch toàn bộ cánh đồng với hiệu quả cao hơn nhiều - và không có cơ hội lây nhiễm bệnh. Trong khi vào năm 1349, một người nông dân thu hoạch trung bình được khoảng 5 giạ ( lúa ) mỗi ngày, thì vào năm 2014, một máy gặt đập liên hợp đã lập kỷ lục với thu hoạch 30.000 giạ trong một ngày. Do đó, Covid-19 không có tác động đáng kể đến sản xuất toàn cầu đối với các loại cây trồng chủ lực như lúa mì, ngô và gạo.

Để nuôi sống mọi người, vấn đề không phải là thu hoạch ngũ cốc không đủ. Vấn đề là bạn cũng cần phải vận chuyển nó, đôi khi đi qua hàng nghìn kilo-mét. Trong hầu hết lịch sử, thương mại là một trong những yếu tố phản diện chính trong câu chuyện về đại dịch. Các mầm bệnh chết người di chuyển khắp thế giới trên các tàu buôn và các đoàn lữ hành đường dài. Ví dụ, Cái chết Đen đã quá giang từ Đông Á đến Trung Đông dọc theo Con đường Tơ lụa, và chính các tàu buôn của người Genova sau đó đã chở nó đến châu Âu. Thương mại gây ra một mối đe dọa chết người như vậy bởi vì mỗi xe ngựa đều cần một người đánh xe ngựa, hàng chục thủy thủ được yêu cầu để vận hành ngay cả những tàu biển nhỏ, và những con tàu và nhà trọ đông đúc là những ổ dịch bệnh.

Vào năm 2020, thương mại toàn cầu có thể tiếp tục hoạt động ít nhiều trôi chảy hơn, bởi vì nó có rất ít con người tham gia. Một con tàu container hiện nay phần lớn được tự động hóa, có thể chở nhiều tấn hàng hơn cả đội thương thuyền của cả một vương quốc tiên tiến thời sơ khai. Năm 1582, đội tàu buôn của Anh có tổng sức chở 68.000 tấn và cần khoảng 16.000 thủy thủ. Con tàu container OOCL Hong Kong, được xử dụng lần đầu vào năm 2017, có thể chở khoảng 200.000 tấn trong khi yêu cầu thủy thủ đoàn chỉ 22 người.

Đúng như vậy, những con tàu du lịch với hàng trăm khách du lịch và máy bay chở đầy hành khách đã đóng vai trò chính trong sự lan truyền Covid-19. Nhưng du lịch và đi lại không phải là điều cần thiết cho thương mại. Khách du lịch có thể ở nhà và những người kinh doanh có thể dùng Zoom, trong khi những con tàu ma tự động và những chuyến tàu gần như không có con người, giữ cho nền kinh tế toàn cầu vận động. Trong khi du lịch quốc tế giảm mạnh vào năm 2020, khối lượng thương mại hàng hải toàn cầu chỉ giảm 4%.

Tự động hóa và kỷ thuật số hóa thậm chí còn có tác động sâu sắc hơn đến các dịch vụ. Vào năm 1918, không thể tưởng tượng được rằng các văn phòng, trường học, tòa án hoặc nhà thờ có thể tiếp tục hoạt động trong tình trạng bị phong tỏa. Nếu học sinh và giáo viên trốn trong nhà của họ, làm thế nào bạn có thể tổ chức lớp học? Hôm nay chúng ta biết câu trả lời. Việc trao đổi trực tuyến có nhiều nhược điểm, nhất là tổn thất tinh thần to lớn. Nó cũng đã tạo ra những vấn đề không thể tưởng tượng được so với trước đây, chẳng hạn như luật sư xuất hiện trước tòa với tư cách là những con mèo (do chưa quen xử dụng ứng dụng trực tuyến Zoom, đã có vị luật sư quay hình con mèo thay ông ta khi trình chiếu trực tuyến với tòa án ….THS ). Nhưng thực tế là họ có thể làm việc được, hoàn toàn đáng kinh ngạc.

Vào năm 1918, loài người chỉ sinh sống ở thế giới vật chất, và khi virus cúm gây chết người quét qua thế giới này, loài người không còn nơi nào để chạy. Ngày nay, nhiều người trong chúng ta đang sống trong hai thế giới - thực và ảo. Khi coronavirus lưu hành qua thế giới vật chất, nhiều người đã chuyển phần lớn cuộc sống của họ sang thế giới ảo, nơi virus không thể bám theo.

Cảnh sát cưởi ngựa ở Hanover, Đức, giải tán một nhóm đang chơi trong công viên © Rafael Heygster / Helena Manhartsberger

Tất nhiên, con người vẫn là những thực thể vật lý, và không phải mọi thứ đều có thể được số hóa. Năm Covid đã nêu bật vai trò quan trọng của nhiều nghề được trả lương thấp làm công việc duy trì nền văn minh của nhân loại : y tá, công nhân vệ sinh, tài xế xe tải, thu ngân, người giao hàng. Người ta thường nói mọi nền văn minh chỉ cách sự dã man trong dăm ba bữa ăn. Vào năm 2020, những người giao hàng là lằn ranh đỏ mỏng manh kết nối các nền văn minh. Họ đã trở thành huyết mạch hoàn toàn quan trọng của chúng ta đối với thế giới vật chất.

Internet ổn định.

Khi nhân loại tự động hóa, kỹ thuật số hóa và chuyển sang các hoạt động trực tuyến, điều đó khiến chúng ta phải đối mặt với những mối nguy hiểm mới. Một trong những điều đáng chú ý nhất của năm Covid là Internet đã không bị phá vỡ. Nếu chúng ta đột ngột tăng lượng lưu thông qua lại trên một cây cầu vật lý, chúng ta có thể bị xảy ra tắc đường, và thậm chí cầu có thể bị sập. Vào năm 2020, các trường học, văn phòng và nhà thờ chuyển sang trực tuyến hầu như chỉ trong một đêm, nhưng Internet vẫn ổn định.

Chúng ta hầu như không dừng lại để suy nghĩ về điều này, nhưng chúng ta nên làm việc này. Sau năm 2020, chúng ta biết rằng cuộc sống có thể tiếp diễn ngay cả khi toàn bộ quốc gia đang trong tình trạng bế tắc vật lý. Bây giờ hãy thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của chúng ta gặp sự cố.

Công nghệ thông tin đã giúp chúng ta kiên cường hơn khi đối mặt với các loại virus hữu cơ, nhưng nó cũng khiến chúng ta dễ bị tổn thương hơn trước phần các mềm độc hại và chiến tranh mạng. Mọi người thường hỏi: "Covid tiếp theo là gì?" Một cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của chúng ta, là ứng cử viên hàng đầu. Phải mất vài tháng để coronavirus lây lan khắp thế giới và lây nhiễm cho hàng triệu người. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của chúng ta có thể sụp đổ chỉ trong một ngày. Và trong khi các trường học và văn phòng có thể chuyển sang trực tuyến một cách nhanh chóng, bạn nghĩ mình sẽ mất bao nhiêu thời gian khi quay lại xử dụng thư từ, hiện là email sang thư được chuyển bằng các dịch vụ giao thông thông thường, như xe, tàu lửa, máy bay ?

Cái gì thì được tính?

Năm Covid đã chỉ ra một hạn chế quan trọng hơn của sức mạnh khoa học và công nghệ của chúng ta. Khoa học không thể thay thế chính trị. Khi chúng ta đi đến quyết định về chính sách, chúng ta phải tính đến nhiều lợi ích và giá trị, và vì không có đường lối nào mang tính khoa học để xác định lợi ích và giá trị nào quan trọng hơn, nên không có cách nào mang tính khoa học để quyết định những gì chúng ta nên làm.

Ví dụ, khi quyết định liệu có áp đặt một đợt phong tỏa hay không, thì không đủ để cân nhắc với câu hỏi : “Có bao nhiêu người sẽ phát ốm với Covid-19 nếu chúng ta không áp đặt lệnh phong tỏa ?”. Chúng ta nên đặt câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ bị trầm cảm ? Bao nhiêu người sẽ bị thiếu dinh dưỡng ? Bao nhiêu người sẽ nghỉ học hoặc mất việc làm? Có bao nhiêu người sẽ bị đánh đập hoặc bị sát hại bởi vợ / chồng của họ; nếu chúng ta áp đặt một cuộc phong tỏa ? "

Ngay cả khi tất cả dữ liệu của chúng ta là chính xác và đáng tin cậy, chúng ta nên luôn hỏi: “Chúng ta đếm cái gì? Ai quyết định cần tính cái gì? Làm thế nào để chúng ta đánh giá các con số có chống lại nhau hay không ? ” Đây là một nhiệm vụ chính trị chứ không phải là khoa học. Chính các chính trị gia phải cân bằng giữa các cân nhắc về y tế, kinh tế và xã hội để đưa ra một chính sách toàn diện.

Tương tự như vậy, các kỹ sư đang tạo ra các nền tảng kỹ thuật số mới, giúp chúng ta hoạt động trong lúc bị phong tỏa, và các công cụ giám sát mới, giúp chúng ta phá vỡ các chuỗi lây nhiễm. Nhưng việc số hóa và giám sát gây nguy hiểm cho quyền riêng tư của chúng ta và mở đường cho sự xuất hiện các chế độ toàn trị chưa từng có. Vào năm 2020, giám sát hàng loạt đã trở nên hợp pháp hơn và phổ biến hơn. Chiến đấu với dịch bệnh là quan trọng, nhưng nó có đáng để chúng ta phá hủy tự do trong quá trình này hay không? Nó là công việc của các chính trị gia chứ không phải của các kỹ sư, công việc đó là tìm ra sự cân bằng đúng đắn giữa việc giám sát hữu ích và những cơn ác mộng ngục tù.

Có ba quy tắc cơ bản có thể tác động trong việc bảo vệ chúng ta khỏi các chế độ độc tài kỹ thuật số, ngay cả trong thời đại bệnh dịch. Thứ nhất, bất cứ khi nào bạn thu thập dữ liệu về mọi người - đặc biệt là về những gì đang xảy ra bên trong cơ thể của họ - dữ liệu này nên được sử dụng để giúp những người này chứ không phải là để thao túng, kiểm soát hoặc làm hại họ. Bác sĩ riêng của tôi biết nhiều điều cực kỳ riêng tư về tôi. Tôi đồng ý với nó, vì tôi tin tưởng bác sĩ của tôi sử dụng dữ liệu này vì lợi ích của tôi. Bác sĩ của tôi không nên bán dữ liệu này cho bất kỳ công ty nào hoặc đảng phái chính trị nào. Bất kỳ loại “cơ quan giám sát đại dịch” nào mà chúng ta có thể thiết lập đều phải y như thế.

Các nhà nghiên cứu tại Viện Vi sinh vật học Bundeswehr của Munich, một cơ sở nghiên cứu quân sự đã chẩn đoán ca bệnh Covid-19 đầu tiên ở Đức © Rafael Heygster / Helena Manhartsberger.

Thứ hai, việc giám sát luôn phải đi theo cả hai hướng. Nếu sự giám sát chỉ đi từ trên xuống dưới, thì đây là con đường dẫn đến chế độ độc tài. Vì vậy, bất cứ khi nào bạn tăng cường giám sát các cá nhân, bạn cũng nên đồng thời tăng cường giám sát chính phủ và các tập đoàn lớn. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng hiện nay, các chính phủ đang phân phối một lượng tiền khổng lồ. Quy trình phân bổ tiền tài trợ cần được minh bạch hơn. Với tư cách là một công dân, tôi muốn dễ dàng xem ai nhận được gì và ai là người quyết định số tiền đi về đâu. Tôi muốn bảo đảm rằng số tiền được chuyển đến cho các doanh nghiệp thực sự cần nó, chứ không phải là cho một tập đoàn lớn mà ông chủ của nó là bạn của một bộ trưởng. Nếu chính phủ nói rằng quá phức tạp để thiết lập một hệ thống giám sát như vậy giữa đại dịch, thì đừng tin vào điều đó. Nếu không quá phức tạp để bắt đầu giám sát những gì bạn làm - thì cũng không quá phức tạp để bắt đầu giám sát những gì chính phủ làm.

Thứ ba, không bao giờ cho phép tập trung quá nhiều dữ liệu ở một nơi. Không phải trong thời kỳ dịch bệnh, và không phải khi nó kết thúc. Độc quyền dữ liệu là một công thức cho chế độ độc tài. Vì vậy, nếu chúng ta thu thập dữ liệu sinh trắc học trên con người để ngăn chặn đại dịch, điều này nên được thực hiện bởi một cơ quan y tế độc lập chứ không phải là cảnh sát. Và dữ liệu kết quả nên được giữ tách biệt với các kho dữ liệu khác của các bộ trong chính phủ và các tập đoàn lớn. Chắc chắn, nó sẽ tạo ra tình trạng con người bị mất việc làm và kém hiệu quả. Nhưng sự kém hiệu quả là một tính năng, không phải là một lỗi. Bạn muốn ngăn chặn sự nổi lên của chế độ độc tài kỹ thuật số ? Hãy giữ mọi thứ, ít nhất là với một chút không hiệu quả.

Về các chính trị gia.

Những thành công chưa từng có về khoa học và công nghệ của năm 2020 đã không giải quyết được cuộc khủng hoảng Covid-19. Chúng đã biến dịch bệnh từ một thiên tai thành một tình thế tiến thoái lưỡng nan về chính trị. Khi Cái chết Đen giết chết hàng triệu người, không ai mong đợi nhiều từ các vị vua và hoàng đế. Khoảng một phần ba tổng số người dân Anh đã chết trong làn sóng đầu tiên của Cái chết Đen, nhưng điều này không khiến Vua Edward III của Anh mất ngôi. Rõ ràng là vượt quá khả năng của những người cai trị để ngăn chặn dịch bệnh, vì vậy không ai đổ lỗi cho họ về sự thất bại.

Nhưng ngày nay loài người có các công cụ khoa học để ngăn chặn Covid-19. Một số quốc gia, từ Việt Nam đến Úc, đã chứng minh rằng ngay cả khi không có vắc-xin, các công cụ sẵn có vẫn có thể ngăn chặn được dịch bệnh. Tuy nhiên, những công cụ này trả giá cao về mặt kinh tế và xã hội. Chúng ta có thể đánh bại virus - nhưng chúng ta không chắc mình có sẵn sàng trả giá cho chiến thắng hay không. Chính vì vậy mà các thành tựu khoa học đã đặt lên vai các nhà chính trị một trách nhiệm vô cùng to lớn.

Thật không may, quá nhiều chính trị gia đã không thực hiện được trách nhiệm này. Ví dụ, các tổng thống theo chủ nghĩa dân túy của Mỹ và Brazil đã hạ thấp sự nguy hiểm, từ chối lưu ý đến các chuyên gia và thay vào đó lại chú ý đến các thuyết âm mưu. Họ đã không đưa ra được một kế hoạch hành động đúng đắn ở cấp liên bang và ngăn chặn các nỗ lực phá hoại của các chính quyền tiểu bang và thành phố, nhằm ngăn chặn dịch bệnh. Sự cẩu thả và thiếu trách nhiệm của chính quyền Trump và Bolsonaro đã dẫn đến hàng trăm nghìn cái chết có thể phòng tránh được.

Ở Anh, ban đầu chính phủ dường như bận tâm đến Brexit hơn là với Covid-19. Với tất cả các chính sách cô lập của mình, chính quyền Johnson đã thất bại trong việc cô lập nước Anh khỏi một thứ thực sự quan trọng : vi rút. Đất nước Israel, quê hương của tôi cũng đã phải chịu đựng sự quản lý yếu kém về chính trị. Như trường hợp của Đài Loan, New Zealand và Síp, Israel trên thực tế là một “quốc đảo”, với biên giới khép kín và chỉ có một cửa khẩu nhập cảnh chính - Sân bay Ben Gurion. Tuy nhiên, vào đỉnh điểm của đại dịch, chính phủ Netanyahu đã cho phép du khách đi qua sân bay mà không có kiểm dịch hoặc thậm chí là kiểm tra thích hợp, và đã bỏ qua việc thực thi các chính sách phong tỏa của riêng mình.

Các nhà nghiên cứu tại trạm thử nghiệm Covid-19 ở trung tâm triển lãm Saarbrücken © Rafael Heygster / Helena Manhartsberger

Cả Israel và Anh sau đó đều đi đầu trong việc tung ra vắc-xin, nhưng những đánh giá sai lầm ban đầu của họ đã khiến họ phải trả giá đắt. Ở Anh, đại dịch đã cướp đi sinh mạng của 120.000 người, đứng thứ sáu trên thế giới về tỷ lệ tử vong trung bình. Trong khi đó, Israel có tỷ lệ trường hợp được xác nhận dương tính trung bình cao thứ bảy, và để chống lại thảm họa, họ phải viện đến một thỏa thuận “ vắc xin đổi lấy dữ liệu ” với tập đoàn Pfizer của Mỹ. Pfizer đồng ý cung cấp đủ vắc xin cho Israel dành cho toàn bộ công chúng, để đổi lấy lượng dữ liệu quý giá khổng lồ, làm dấy lên những lo ngại về quyền riêng tư và độc quyền dữ liệu, đồng thời chứng minh rằng dữ liệu của công dân hiện là một trong những tài sản của nhà nước có giá trị nhất.

Trong khi một số quốc gia hoạt động tốt hơn nhiều, nhân loại nói chung cho đến nay đã thất bại trong việc ngăn chặn đại dịch hoặc đề ra một kế hoạch toàn cầu để đánh bại vi rút. Những tháng đầu năm 2020, nhân loại giống như đang xem một vụ tai nạn với chuyển động chậm. Truyền thông hiện đại giúp mọi người trên toàn thế giới có thể nhìn thấy trong thời gian thực những hình ảnh đầu tiên từ Vũ Hán, sau đó từ Ý, rồi từ nhiều quốc gia hơn - nhưng không có nhà lãnh đạo toàn cầu nào xuất hiện để ngăn chặn thảm họa đang nhấn chìm thế giới. Các công cụ đã có ở đó, nhưng cũng thường xuyên thiếu vắng sự khôn ngoan chính trị.

Người nước ngoài giải cứu.

Một lý do giải thích cho khoảng cách giữa thành công khoa học và thất bại chính trị là, các nhà khoa học hợp tác trên toàn cầu, trong khi các chính trị gia có xu hướng thù địch. Làm việc dưới nhiều căng thẳng và không chắc chắn, các nhà khoa học trên khắp thế giới đã tự do chia sẻ thông tin và dựa trên những phát hiện và hiểu biết của nhau. Nhiều dự án nghiên cứu quan trọng đã được thực hiện bởi các nhóm quốc tế. Ví dụ, một nghiên cứu quan trọng chứng minh hiệu quả của các biện pháp phong tỏa đã được đồng tiến hành bởi các nhà nghiên cứu từ chín tổ chức - một ở Anh, ba ở Trung Quốc và năm ở Mỹ.

Ngược lại, các chính trị gia đã thất bại trong việc thành lập một liên minh quốc tế chống lại virus và không đồng ý về một kế hoạch toàn cầu. Hai siêu cường hàng đầu thế giới, Mỹ và Trung Quốc, đã cáo buộc nhau giữ kín thông tin quan trọng, phổ biến thông tin sai lệch và thuyết âm mưu, thậm chí cố tình phát tán virus. Nhiều quốc gia khác rõ ràng đã làm sai lệch hoặc giấu dữ liệu về tiến trình của đại dịch.

Một trong khoảng 400 trung tâm tiêm chủng vaccine được thành lập ở Festhalle của Frankfurt, nơi thường là địa điểm tổ chức buổi hòa nhạc © Rafael Heygster

Sự thiếu hợp tác toàn cầu thể hiện không chỉ trong các cuộc chiến thông tin này, mà còn nhiều hơn trong các xung đột về thiết bị y tế khan hiếm. Mặc dù đã có nhiều trường hợp hợp tác và hào phóng, nhưng không có nỗ lực nghiêm túc nào được thực hiện để tổng hợp tất cả các nguồn lực sẵn có, hợp lý hóa sản xuất toàn cầu và bảo đảm phân phối các nguồn cung cấp một cách công bằng. Đặc biệt, “ chủ nghĩa dân tộc về vắc xin ” tạo ra một loại bất bình đẳng toàn cầu mới, giữa các quốc gia có thể tiêm chủng cho dân chúng của họ và các quốc gia không tiêm chủng được.

Thật đáng buồn khi nhiều người không hiểu một sự thật đơn giản về đại dịch này : chừng nào virus vẫn tiếp tục lây lan ở bất cứ đâu, thì không quốc gia nào có thể cảm thấy an toàn thực sự. Giả sử Israel hoặc Vương quốc Anh thành công trong việc tiêu diệt vi rút trong biên giới của mình, nhưng vi rút vẫn tiếp tục lây lan trong hàng trăm triệu người ở Ấn Độ, Brazil hoặc Nam Phi. Một đột biến mới ở một thị trấn xa xôi nào đó của Brazil có thể khiến vắc-xin không hiệu quả, và dẫn đến một làn sóng lây nhiễm mới.

Trong trường hợp khẩn cấp hiện nay, những lời kêu gọi vì lòng vị tha có lẽ sẽ không quan trọng hơn lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp hiện nay, sự hợp tác toàn cầu không phải là lòng vị tha. Đó là điều cần thiết để bảo đảm lợi ích quốc gia.

Chống virus cho thế giới.

Những tranh luận về những gì đã xảy ra vào năm 2020 sẽ vang dội trong nhiều năm. Nhưng mọi người của tất cả các phe nhóm chính trị nên đồng ý với nhau về ít nhất ba bài học chính.

Thứ nhất, chúng ta cần bảo vệ cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của mình. Đó là sự cứu rỗi của chúng ta trong đại dịch này, nhưng nó có thể sớm trở thành nguồn gốc của một thảm họa thậm chí còn tồi tệ hơn.

Thứ hai, mỗi quốc gia nên đầu tư nhiều hơn vào hệ thống y tế công cộng của mình. Điều này có vẻ hiển nhiên, nhưng các chính trị gia và cử tri đôi khi bỏ qua hẳn bài học rõ ràng nhất.

Thứ ba, chúng ta nên thiết lập một hệ thống toàn cầu mạnh mẽ để giám sát và ngăn chặn đại dịch. Trong cuộc chiến lâu đời giữa con người và mầm bệnh, chiến tuyến đi qua cơ thể của mỗi con người. Nếu ranh giới này bị phá vỡ ở bất kỳ đâu trên hành tinh, nó sẽ khiến tất cả chúng ta gặp nguy hiểm. Ngay cả những người giàu nhất ở các nước phát triển nhất cũng có lợi ích cá nhân trong việc bảo vệ những người nghèo nhất ở các nước kém phát triển nhất. Nếu một loại virus mới nhảy từ dơi sang người trong một ngôi làng nghèo khó ở một khu rừng hẻo lánh nào đó, thì trong vài ngày, virus đó có thể xâm nhập vào Phố Wall.

Các phòng thí nghiệm của Bioscientia, nơi các xét nghiệm coronavirus được chẩn đoán, đánh giá và lưu trữ © Rafael Heygster

Bộ khung của một hệ thống toàn cầu như vậy đã tồn tại khi chống lại bệnh dịch hạch dưới hình dạng của Tổ chức Y tế Thế giới và một số tổ chức khác. Nhưng ngân sách hỗ trợ hệ thống này rất ít ỏi và nó hầu như không có hiệu quả chính trị. Chúng ta cần cung cấp cho hệ thống này một số ảnh hưởng chính trị và nhiều tiền hơn nữa, để nó không hoàn toàn phụ thuộc vào ý thích bất chợt của các chính trị gia vị kỷ. Như đã nói trước đó, tôi không tin rằng các chuyên gia không được bầu chọn nên được giao nhiệm vụ đưa ra các quyết định chính sách quan trọng. Điều đó nên được dành riêng cho các chính trị gia. Nhưng một số loại cơ quan y tế toàn cầu độc lập, sẽ là nền tảng lý tưởng để tổng hợp dữ liệu y tế, theo dõi các mối nguy tiềm ẩn, nâng cao cảnh báo, chỉ đạo nghiên cứu và phát triển.

Nhiều người lo sợ rằng Covid-19 đánh dấu sự khởi đầu của một làn sóng đại dịch mới. Nhưng nếu các bài học nêu trên được thực hiện, cú sốc của Covid-19 có thể thực sự dẫn đến các đại dịch sẽ trở nên ít phổ biến hơn. Loài người không thể ngăn chặn sự xuất hiện các mầm bệnh mới. Đây là một quá trình tiến hóa tự nhiên mà đã diễn ra hàng tỷ năm và sẽ còn tiếp tục trong tương lai. Nhưng ngày nay loài người có kiến ​​thức và công cụ cần thiết để ngăn chặn mầm bệnh mới lây lan và trở thành đại dịch.

Tuy nhiên, nếu Covid-19 tiếp tục lây lan vào năm 2021 và giết chết hàng triệu người, hoặc nếu một đại dịch gây chết người thậm chí nhiều hơn xảy ra với loài người vào năm 2030, thì đây sẽ không phải là một thảm họa tự nhiên không thể kiểm soát được, cũng không phải là sự trừng phạt từ Thượng đế. Đó sẽ là một thất bại của nhân loại và - chính xác hơn - là một thất bại thuộc về chính trị.


_ Yuval Noah Harari là tác giả của ' Sapiens ', ' Homo Deus ', '21 bài học cho thế kỷ 21 ' và 'Sapiens: Lịch sử đồ họa'.

Bản quyền © Yuval Noah Harari 2021


Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.