Trung Quốc là một cường quốc đang suy giảm - và đó là vấn đề

Hoa Kỳ cần chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh nghiêm trọng, không phải vì đối thủ của họ đang gia tăng mà vì điều ngược lại.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình rời đi sau khi nâng ly chúc mừng trong bữa tiệc chào mừng Diễn đàn Vành đai và Con đường tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh vào ngày 14 tháng 5 năm 2017. ẢNH: WU HONG/GETTY IMAGES

Hal Brands, Michael Beckley,…24 THÁNG CHÍN, 2021. Theo Foreign Policy.

Trần H Sa lược dịch.

Tại sao các cường quốc đánh nhau trong các trận đại chiến ? Câu trả lời thông thường là câu chuyện về những nước đang trổi lên thách thức và những nước bá chủ đang suy giảm. Một cường quốc đang trổi lên, trêu tức các quy tắc của trật tự hiện có, muốn giành địa bàn của một cường quốc đã cũng cố - là quốc gia đã đưa ra những quy tắc đó. Căng thẳng nhân lên; các thử thách về sức mạnh xảy ra sau đó. Kết quả là vòng xoáy của sợ hãi và thù địch dẫn đến xung đột, gần như chắc chắn. Nhà sử học cổ đại Thucydides viết "sự phát triển sức mạnh của Athens, và sự cảnh giác về sức mạnh đó đã gây nên những ý tưởng ở Sparta, làm cho chiến tranh không thể tránh khỏi", một sự thật được viện dẫn vào lúc này, đến nỗi phát ngán, khi giải thích cuộc đối đầu Mỹ - Trung.

Ý tưởng về cái bẫy Thucydides, được phổ biến bởi nhà khoa học chính trị ở Harvard, Graham Allison, cho rằng nguy cơ chiến tranh sẽ tăng vọt khi một Trung Quốc đang trỗi dậy vượt qua một nước Mỹ đang tụt hậu. Thậm chí chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng ủng hộ khái niệm này, cho rằng Washington phải nhường chỗ cho Bắc Kinh. Khi căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc leo thang, niềm tin cho rằng nguyên nhân căn bản của sự xích mích là một "quá trình chuyển đổi quyền lực" đang hiện ra lờ mờ - sự thay thế quyền bá chủ này bằng một bá chủ khác - đã trở thành ý tưởng kinh điển.

Vấn đề duy nhất với công thức quen thuộc này là, nó không đúng.

Bẫy Thucydides không thực sự giải thích nguyên nhân cuộc chiến tranh Peloponnesian (cuộc chiến giữa các thành bang Hy Lạp cổ đại, Liên minh Peloponnisos được lãnh đạo bởi thành bang Sparta đã đánh bại liên minh Delos do Athens dẫn đầu … THS). Nó không nắm bắt được động lực thường thúc đẩy các cường quốc muốn thay đổi hiện trạng - cho dù đó là Đức vào năm 1914 hay Nhật Bản vào năm 1941 - bắt đầu một số cuộc xung đột tàn khốc nhất trong lịch sử. Và nó không giải thích tại sao chiến tranh là một khả năng rất thực tế trong quan hệ Mỹ-Trung ngày nay, bởi vì về căn bản nó chẩn đoán sai nơi mà Trung Quốc hiện đang tìm thấy bản thân mình trên vòng cung phát triển - đó là điểm mà sức mạnh tương đối của nó đang đạt đỉnh và sẽ sớm bắt đầu mờ dần.

Thực sự có một cái bẫy chết người có thể đánh bẫy Hoa Kỳ và Trung Quốc. Nhưng nó không phải là sản phẩm của quá trình chuyển đổi quyền lực mà những người dựa vào bẫy Thucydides nói một cách sáo rỗng. Thay vào đó, tốt nhất nó cần được coi là "cái bẫy của quyền lực đỉnh cao". Và nếu lịch sử là bất kỳ sự hướng dẫn nào, thì sự suy giảm lơ lững trên đầu của Trung Quốc - chứ không phải của Hoa Kỳ - có thể khiến nó nhanh chóng bị sụp đổ.

Sự rút lui của người Athens khỏi Syracuse trong Chiến tranh Peloponnesian được mô tả trong "Lịch sử phổ quát được minh họa của Cassell". The Print Collector/Heritage Images via Getty Images

Có một lối mòn trong văn học, được gọi là "lý thuyết chuyển đổi quyền lực", cho rằng chiến tranh giữa các cường quốc thường xảy ra ở giao điểm của sự trỗi dậy từ kẻ bá quyền và sự suy giảm của người đang bá chủ. Đây là phần chính yếu của công việc làm nền tảng cho bẫy Thucydides, và phải thừa nhận rằng, có một sự thật căn bản cho ý tưởng này. Sự trỗi dậy của các cường quốc mới, luôn gây bất ổn. Trong thời gian dẫn đến cuộc chiến tranh Peloponnesian vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, Athens dường như không quá đe dọa Sparta, nếu không xây dựng một đế chế rộng lớn và trở thành một siêu cường hải quân. Washington và Bắc Kinh sẽ không bị mắc kẹt trong cuộc đối đầu nếu Trung Quốc vẫn còn nghèo nàn và yếu kém. Các cường quốc đang trỗi dậy mở rộng ảnh hưởng của họ theo những cách đe dọa các cường quốc đang trị vì.

Nhưng những biến số tạo ra chiến tranh - đặc biệt là những biến số thúc đẩy các cường quốc xét lại, tức là các quốc gia tìm cách tổ chức lại hệ thống hiện có, đột ngột đả kích hệ thống đó một cách dữ dội - phức tạp hơn. Một đất nước với sự giàu có và sức mạnh tương đối đang phát triển, chắc chắn sẽ trở nên quyết đoán và tham vọng hơn. Với ý nghĩ, tất cả mọi thứ đều bình đẳng, nó sẽ tìm kiếm ảnh hưởng và uy tín trên toàn cầu lớn hơn. Nhưng nếu vị thế của nó đang dần được cải thiện, nó sẽ trì hoãn một cuộc đối đầu chết người và trì hoãn ham muốn thống trị với quyền bá chủ, cho đến khi nó trở nên mạnh mẽ hơn. Một quốc gia như vậy cần tuân theo câu châm ngôn mà cựu lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã đặt ra cho một Trung Quốc đang trỗi dậy sau Chiến tranh Lạnh : ẩn mình chờ thời.

Bây giờ hãy tưởng tượng một kịch bản khác. Một quốc gia đang trên tiến trình xây dựng sức mạnh, và mở rộng tầm nhìn địa chính trị với lòng tham chưa được thỏa mãn. Nhưng rồi quốc gia này đạt đỉnh cao, có lẽ vì nền kinh tế của nó chậm lại, hoặc có lẽ vì sự quyết đoán của chính nó gây ra một liên minh các đối thủ quả quyết, hoặc có lẽ vì cả hai điều này xảy ra cùng một lúc. Tương lai bắt đầu có vẻ khá nguy hiểm; một cảm giác nguy hiểm sắp xảy ra, bắt đầu thay thế cho cảm giác về khả năng vô hạn mà nó ham muốn thủ đắc. Trong những trường hợp này, một cường quốc xét lại có thể hành động táo bạo, thậm chí hung hăng, để tóm lấy những gì nó có thể có, trước khi quá muộn. Quỹ đạo nguy hiểm nhất trong chính trị thế giới là một sự nổi lên lâu dài, tiếp theo lại là viễn cảnh suy giảm mạnh.

Như chúng tôi đã trình bày trong cuốn sách sắp tới của chúng tôi, 'Vùng nguy hiểm: Xung đột sắp tới với Trung Quốc', kịch bản này phổ biến hơn nhiều so với bạn nghĩ. Chẳng hạn, nhà sử học Donald Kagan đã chỉ ra rằng, Athens bắt đầu hành động hiếu chiến hơn trong những năm trước Chiến tranh Peloponnesian vì nó sợ những thay đổi bất lợi trong cán cân sức mạnh hải quân - nói cách khác, bởi vì nó đang trên bờ vực bị mất ảnh hưởng so với Sparta. Chúng ta cũng thấy điều tương tự trong nhiều trường hợp gần đây.

Trong 150 năm qua, các cường quốc đỉnh cao - các cường quốc đã tăng trưởng nhanh hơn đáng kể so với mức trung bình của thế giới và sau đó bị suy thoái nghiêm trọng, kéo dài - thường không biến mất một cách lặng lẽ. Thay vào đó, họ trở nên thô lỗ và hung dữ. Họ đàn áp bất đồng chính kiến trong nước và cố gắng lấy lại động lực kinh tế, bằng cách tạo ra các phạm vi ảnh hưởng độc quyền ở nước ngoài. Họ đổ tiền vào quân đội và sử dụng vũ lực để mở rộng ảnh hưởng của họ. Hành vi này thường gây ra những căng thẳng giữa các cường quốc. Trong một số trường hợp, nó đi dến những cuộc chiến tranh thảm khốc.

Điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Thời kỳ tăng trưởng nhanh chóng làm tăng tham vọng của một quốc gia, nâng cao kỳ vọng của người dân và khiến các đối thủ lo lắng. Trong bùng nổ kinh tế kéo dài, các doanh nghiệp được hưởng lợi nhuận ngày càng tăng và người dân đã quen với đời sống rộng rãi. Đất nước này trở thành một người chơi lớn hơn trên trường quốc tế. Sau đó, bị tấn công bởi sự trì trệ .

Tăng trưởng chậm lại khiến các nhà lãnh đạo khó giữ hạnh phúc cho công chúng hơn. Hoạt động kinh tế kém hiệu quả làm đất nước suy yếu so với các đối thủ. Lo sợ biến động, các nhà lãnh đạo đàn áp bất đồng chính kiến. Họ vận động một cách tuyệt vọng để ngăn chặn kẻ thù địa chính trị mà có thể gây hại cho họ. Bành trướng dường như là một giải pháp - một cách để nắm bắt các nguồn lực kinh tế và thị trường, làm cho chủ nghĩa dân tộc trở thành một cái nạng chống đở cho một chế độ bị thương, và thúc đẩy đánh bại các mối đe dọa của nước ngoài.

Nhiều quốc gia đã đi theo con đường này. Khi sự gia tăng kinh tế kéo dài sau nội chiến của Hoa Kỳ bị kết thúc, Washington đã đàn áp dữ dội các cuộc đình công và bất ổn ở trong nước, xây dựng một Hải quân xa bờ mạnh mẽ, hành xử một cách hiếu chiến, và bành trướng đế quốc trong những năm 1890. Sau khi đế quốc Nga trỗi dậy nhanh chóng bị rơi vào tình trạng suy thoái sâu sắc vào đầu thế kỷ 20, chính phủ Sa hoàng đã đàn áp mạnh mẽ trong khi cũng mở rộng quân đội, tìm kiếm lợi ích thuộc địa ở Đông Á và gửi khoảng 170.000 binh sĩ đến chiếm Mãn Châu. Những động thái này đã phản tác dụng một cách ngoạn mục : Họ đã gây thù với Nhật Bản, nước mà đã đánh bại Nga trong cuộc chiến giữa các cường quốc đầu tiên của thế kỷ 20.

Một thế kỷ sau, Nga trở nên hung hăng trong hoàn cảnh tương tự. Đối mặt với suy thoái kinh tế nghiêm trọng sau năm 2008, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã xâm lược hai nước láng giềng, tìm cách tạo ra một khối kinh tế Á-Âu mới, đặt cược yêu sách chủ quyền của Moscow đối với Bắc Cực giàu tài nguyên, và đưa Nga tiến sâu hơn vào chế độ độc tài. Ngay cả nước Pháp dân chủ cũng tham gia vào tình huống phóng đại sự lo lắng, sau khi việc mở rộng kinh tế thời hậu đệ nhị thế chiến bị kết thúc vào những năm 1970. Pháp đã cố gắng xây dựng lại phạm vi ảnh hưởng cũ của mình ở châu Phi, triển khai 14.000 quân đến các cựu thuộc địa của mình, và thực hiện hàng chục cuộc can thiệp quân sự trong hai thập kỷ tiếp theo.

Tất cả các trường hợp này đều phức tạp, nhưng mô thức của chúng là rõ ràng. Nếu sự gia tăng nhanh chóng mang lại cho các quốc gia những phương tiện để hành động táo bạo, thì nỗi sợ suy thoái tạo nên một động cơ mạnh mẽ để họ bành trướng nhanh chóng hơn, khẩn cấp hơn. Điều tương tự thường xảy ra khi các cường quốc đang trỗi dậy nhanh chóng gây ra một liên minh thù địch ngăn chặn họ. Trên thực tế, một số cuộc chiến tranh khủng khiếp nhất trong lịch sử đã đến, khi các cường quốc xét lại kết luận rằng, con đường đi đến vinh quang của họ sắp bị chặn.

Kaiser Wilhelm II của Đức gặp gỡ quân đội trong Thế chiến I năm 1914. Universal History Archive/Universal Images Group via Getty Images

Đế quốc Đức và Nhật Bản là những ví dụ trong sách giáo khoa.

Sự đối đầu của Đức với Anh vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 thường được coi là một sự tương tự như cạnh tranh Mỹ-Trung : Trong cả hai trường hợp, một đối thủ chuyên quyền đe dọa một bá chủ tự do. Nhưng sự tương đồng tỉnh táo hơn là ở điều này : Chiến tranh xảy ra khi một nước Đức bị dồn vào chân tường, nó sẽ không vượt qua được các đối thủ của mình nếu không có một cuộc chiến.

Trong nhiều thập kỷ sau khi thống nhất vào năm 1871, Đức đã tăng vọt. Các nhà máy của nó phun ra sắt và thép, xóa đi vị trí dẫn đầu kinh tế của Anh. Berlin đã xây dựng quân đội tốt nhất và thiết giáp hạm tốt nhất ở châu Âu, đe dọa quyền tối cao của Anh trên biển. Vào đầu những năm 1900, ở châu Âu Đức là một đối thủ nặng ký đang tìm kiếm phạm vi ảnh hưởng khổng lồ tại lục địa này, ở Trung Âu. Dưới thời Kaiser Wilhelm II hồi đó, nước Đức cũng theo đuổi, một "chính sách tầm thế giới" nhằm bảo đảm các thuộc địa và sức mạnh toàn cầu.

Nhưng trong khúc dạo đầu dẫn đến chiến tranh, hoàng đế Đức và các trợ lý của ông không cảm thấy tự tin. Hành vi thô lỗ của Đức đã gây ra sự bao vây của các thế lực thù địch. London, Paris và St. Petersburg, (Nga) đã thành lập một "Đồng minh Tam quốc " để ngăn chặn sự bành trướng của Đức. Đến năm 1914, thời gian đã cạn kiệt. Đức mất dần vị thế kinh tế vào tay một nước Nga đang phát triển nhanh chóng; London và Pháp theo đuổi việc ngăn chặn kinh tế bằng cách ngăn chặn Đức tiếp cận dầu mỏ và quặng sắt. Đồng minh quan trọng của Berlin, Áo-Hung, đang bị xé nát bởi những căng thẳng sắc tộc. Ở trong nước, hệ thống chính trị chuyên quyền của Đức gặp rắc rối.

Đáng ngại nhất, cán cân quân sự đã thay đổi. Pháp mở rộng quân đội; Nga bổ sung 470.000 người vào quân đội và cắt giảm thời gian cần thiết để động viên phục vụ chiến tranh. Anh tuyên bố sẽ chế tạo hai thiết giáp hạm tính trên mỗi thiết giáp hạm do Berlin chế tạo. Vào lúc đó, Đức là cường quốc quân sự hàng đầu của châu Âu, nhưng đến năm 1916 và 1917, nó bị áp đảo một cách vô vọng. Kết quả là một thứ tâm lý 'hiện tại hoặc không bao giờ', Tham mưu trưởng Helmuth von Moltke tuyên bố : Đức cần "đánh bại kẻ thù trong khi chúng ta vẫn có cơ hội chiến thắng", ngay cả khi điều đó có nghĩa là "kích động một cuộc chiến tranh trong tương lai gần".

Đây là những gì xảy ra sau khi những người theo chủ nghĩa dân tộc Serbia ám sát Thái tử Áo vào tháng 6 năm 1914. Chính phủ của Kaiser kêu gọi Áo-Hung đè bẹp Serbia, mặc dù điều đó có nghĩa là chiến tranh với Nga và Pháp. Sau đó, Đức xâm chiếm nước Bỉ trung lập - chìa khóa cho Kế hoạch Schlieffen là một cuộc chiến tranh gồm hai mặt trận - bất chấp khả năng khiêu khích nước Anh. "Cuộc chiến này sẽ biến thành một cuộc chiến tranh thế giới, trong đó nước Anh cũng sẽ can thiệp", Moltke thừa nhận. Sự trỗi dậy của Đức đã cho nó sức mạnh để mạo hiểm cho sự vĩ đại. Sự suy giảm sắp xảy ra của nó đã định hướng cho các quyết định đẩy thế giới vào chiến tranh.

Nữ sinh Nhật Bản vẫy cờ trước Cung điện Hoàng gia ở Tokyo vào ngày 15 tháng 12 năm 1937, để kỷ niệm việc Nhật Bản chiếm thành phố Nam Kinh của Trung Quốc. PhotoQuest/Getty Images

Đế quốc Nhật Bản cũng đi theo một quỹ đạo tương tự. Trong nửa thế kỷ sau cuộc Minh Trị Duy Tân hồi năm 1868, Nhật Bản đã vươn lên một cách vững vàng. Việc xây dựng một nền kinh tế hiện đại và một quân đội mãnh liệt cho phép Tokyo giành chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh quan trọng và tích lũy các đặc quyền thuộc địa ở Trung Quốc, Đài Loan và Bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, Nhật Bản không phải là một kẻ săn mồi siêu hiếu chiến : Trong những năm 1920, họ hợp tác với Hoa Kỳ, Anh và các quốc gia khác để tạo ra một khuôn khổ an ninh hợp tác ở châu Á-Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, trong thập kỷ đó, mọi thứ đã sụp đổ. Tăng trưởng giảm từ 6,1% hàng năm từ năm 1904 đến năm 1919, xuống còn 1,8% hàng năm trong những năm 1920; cuộc Đại suy thoái sau đó đã đóng cửa thị trường nước ngoài của Nhật Bản. Thất nghiệp tăng vọt, và nông dân bị phá sản đã phải bán con gái của họ. Trong khi đó, ở Trung Quốc, ảnh hưởng của Nhật Bản đang bị thách thức bởi Liên Xô, và một phong trào dân tộc chủ nghĩa đang gia tăng dưới thời Tưởng Giới Thạch, là nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ. Câu trả lời của Tokyo là, chủ nghĩa phát xít ở trong nước và gây hấn ở nước ngoài.

Từ cuối những năm 1920 trở đi, quân đội Nhật Bản đã tiến hành một cuộc đảo chính tiệm tiến và khai thác các nguồn lực của quốc gia cho "chiến tranh toàn diện". Nhật Bản đã khởi xướng một sự tăng cường quân sự khổng lồ và thiết lập một phạm vi ảnh hưởng rộng lớn bằng bạo lực, chiếm Mãn Châu vào năm 1931, xâm lược Trung Quốc vào năm 1937, và đặt kế hoạch chinh phục các thuộc địa giàu tài nguyên và các hòn đảo chiến lược trên khắp châu Á-Thái Bình Dương. Mục tiêu là xây dựng một đế chế tự cung tự cấp ; kết quả đã kéo một chiếc thòng lọng chiến lược quanh cổ Tokyo.

Việc Nhật Bản tiến quân vào Trung Quốc cuối cùng đã dẫn đến một cuộc chiến với Liên Xô. Các thiết kế của Nhật Bản ở Đông Nam Á khiến Nước Anh lo ngại. Định hướng giành lấy vị trí hàng đầu ở khu vực cũng khiến nó trở thành kẻ thù của Hoa Kỳ - quốc gia mà Tokyo đang nhập khẩu gần như tất cả dầu lửa từ đó, với nền kinh tế lớn hơn rất nhiều so với Nhật Bản. Tokyo đã đối kháng với một liên minh áp đảo của kẻ thù. Sau đó, nó mạo hiểm mọi thứ thay vì chấp nhận sự sỉ nhục và suy tàn.

Do vội vàng, một lần nữa, cửa sổ cơ hội bị đóng lại. Vào năm 1941, Hoa Kỳ đã xây dựng một quân đội bất khả chiến bại. Vào tháng 7, Tổng thống Mỹ hồi đó, Franklin Roosevelt đã áp đặt lệnh cấm vận dầu mỏ, đe dọa ngăn chặn sự bành trướng của Nhật Bản. Nhưng Nhật Bản vẫn có lợi thế quân sự tạm thời ở Thái Bình Dương, nhờ việc tái vũ trang sớm của họ. Vì vậy, Nhật đã sử dụng lợi thế đó trong một cuộc tấn công chớp nhoáng - chiếm Đông Ấn của Hà Lan, Philippines và các tài sản khác từ Singapore đến đảo Wake, cũng như ném bom vào hạm đội Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng - điều mà đã bảo đảm sự hủy diệt của chính nó.

Tướng Nhật Bản lúc đó là Hideki Tojo thừa nhận, triển vọng chiến thắng của Nhật Bản là mờ mịt, nhưng không có lựa chọn nào khác ngoài việc "nhắm mắt lại và nhảy". Một Nhật Bản xét lại trở nên bạo lực nhất khi họ thấy rằng thời gian đang cạn kiệt.

Người thân dừng lại khi họ đặt tro cốt của người thân yêu vào trong chiếc máng bằng kim loại trên một chiếc phà ở biển Hoa Đông ngoài khơi Thượng Hải vào ngày 22 tháng 3 năm 2014. Một số thành phố của Trung Quốc thúc đẩy chôn cất trên biển như một nỗ lực để bù đắp sự thiếu hụt đất đai cho các nghĩa trang, do dân số lảo hóa nhanh chóng. ẢNH: KEVIN FRAYER/GETTY IMAGES

Đây là cái bẫy thực sự mà Hoa Kỳ nên lo lắng trong liên quan đến Trung Quốc ngày nay - cái bẫy mà trong đó một siêu cường đầy tham vọng đạt đỉnh rồi sau đó từ chối chịu hậu quả đau đớn của việc hạ cánh.

Sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải là ảo ảnh : Nhiều thập kỷ tăng trưởng đã mang lại cho Bắc Kinh những sức mạnh kinh tế của một cường quốc toàn cầu. Các khoản đầu tư to lớn vào các công nghệ quan trọng và cơ sở hạ tầng truyền thông, đã mang lại cho nó vị thế vững chắc trong cuộc đấu tranh giành ảnh hưởng địa kinh tế; Trung Quốc đang sử dụng 'Sáng kiến Vành đai và Con đường' đa lục địa để đưa các quốc gia khác vào quỹ đạo của nó. Đáng báo động nhất, các đánh giá của các nhà tư vấn và các báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ cho thấy, quân đội ngày càng đáng gờm của Trung Quốc hiện đang đứng trước cơ hội thực sự để giành chiến thắng trong một cuộc chiến chống lại Mỹ ở Tây Thái Bình Dương.

Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi Trung Quốc cũng phát triển những tham vọng của một siêu cường : Tập Cận Bình ít nhiều tuyên bố rằng Bắc Kinh mong muốn khẳng định chủ quyền của nó đối với Đài Loan, Biển Đông và các khu vực tranh chấp khác, khẳng định Trung quốc đang trở thành cường quốc ưu việt của châu Á, và thách thức Hoa Kỳ về vai trò lãnh đạo toàn cầu. Tuy nhiên, nếu cửa sổ cơ hội địa chính trị của Trung Quốc là có thật, thì tương lai của nước này đã bắt đầu có vẻ khá ảm đạm, vì nó đang nhanh chóng mất đi những lợi thế vốn đã thúc đẩy tăng trưởng nhanh chóng.

Từ những năm 1970 đến những năm 2000, Trung Quốc gần như tự cung tự cấp về thực phẩm, nước sinh hoạt và tài nguyên năng lượng. Nó được hưởng tài sản nhân khẩu học lớn nhất trong lịch sử, với tỷ lệ 10 người trưởng thành trong độ tuổi lao động trên mỗi công dân cao tuổi từ 65 trở lên. (Đối với hầu hết các nền kinh tế lớn, trung bình là gần 5 người trưởng thành trong độ tuổi lao động trên mỗi công dân cao tuổi.) Trung Quốc có một môi trường địa chính trị an toàn, dễ dàng tiếp cận thị trường và công nghệ nước ngoài, tất cả đều được củng cố bởi mối quan hệ thân thiện với Hoa Kỳ. Và chính phủ Trung Quốc đã khéo léo khai thác những lợi thế này bằng cách thực hiện một quá trình cải cách và mở cửa kinh tế, đồng thời chuyển đổi chế độ từ chế độ toàn trị ngột ngạt dưới thời Mao Trạch Đông, cựu lãnh đạo Trung Quốc, sang một hình thức độc tài - như vẫn còn đàn áp sâu sắc - thông minh hơn dưới những người kế nhiệm Mao. Tất cả những gì mà Trung Quốc đã có được từ những năm 1970 đến đầu những năm 2010 - chỉ là sự pha trộn của các khoản tài trợ, môi trường, con người và các chính sách cần thiết để phát triển mạnh.

Tuy nhiên, kể từ cuối những năm 2000, các động lực tạo nên sự trỗi dậy của Trung Quốc đã bị đình trệ hoặc quay ngược lại hoàn toàn. Ví dụ, Trung Quốc đang cạn kiệt tài nguyên : Nước sinh hoạt đã trở nên khan hiếm, quốc gia này đang nhập khẩu nhiều năng lượng và thực phẩm hơn bất kỳ quốc gia nào khác, và đã tàn phá tài nguyên thiên nhiên của chính mình. Do đó, tăng trưởng kinh tế đang trở nên tốn kém hơn : Theo dữ liệu từ Ngân hàng DBS (Ngân hàng Phát triển Singapore ), ngày nay Trung Quốc phải mất gấp ba lần số đầu vào để tạo ra một đơn vị tăng trưởng so với đầu những năm 2000.

Trung Quốc cũng đang tiến gần đến một vách đá nhân khẩu học: Từ năm 2020 đến năm 2050, đáng kinh ngạc, họ sẽ mất khoảng 200 triệu người trưởng thành trong độ tuổi lao động - một dân số có quy mô bằng Nigeria - và nhận lấy 200 triệu người cao tuổi. Hậu quả tài chính và kinh tế sẽ rất tàn khốc : Các dự báo hiện tại cho thấy chi tiêu y tế và an sinh xã hội của Trung Quốc sẽ phải tăng gấp ba lần so với lợi tức GDP, từ 10% lên 30%, vào năm 2050, chỉ để ngăn chặn hàng triệu người cao niên chết vì nghèo đói và bị bỏ mặc.

Khiến cho vấn đề tồi tệ hơn, Trung Quốc đang quay lưng lại với gói chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng nhanh chóng. Dưới thời Tập Cận Bình, Bắc Kinh đã quay trở lại chủ nghĩa toàn trị. Tập Cận Bình đã tự bổ nhiệm mình làm "chủ tịch của mọi thứ", phá hủy bất kỳ sự cai trị tập thể nào và biến việc tuân thủ "tư tưởng Tập Cận Bình" thành ý thức hệ cốt lõi của một chế độ ngày càng cứng nhắc. Và ông đã không ngừng theo đuổi việc tập trung quyền lực với cái giá phải trả là sự thịnh vượng kinh tế.

Các công ty sống dở chết dở của nhà nước đang được hỗ trợ, trong khi các công ty tư nhân bị thiếu vốn. Phân tích kinh tế khách quan đang được thay thế bằng tuyên truyền của chính phủ. Đổi mới đang trở nên khó khăn hơn trong một bầu không khí tuân theo ý thức hệ đần độn. Trong khi đó, chiến dịch chống tham nhũng tàn bạo của Tập Cận Bình đã ngăn cản tinh thần kinh doanh, và một làn sóng các quy định được định hướng bởi chính trị đã xóa hơn 1 nghìn tỷ đô la khỏi thị trường vốn hóa của các công ty công nghệ hàng đầu Trung Quốc. Tập Cận Bình không chỉ đơn giản là ngăn chặn quá trình tự do hóa kinh tế vốn đã cung cấp sức mạnh cho sự phát triển của Trung Quốc : Ông còn thô bạo ném nó vào sự đảo ngược.

Thiệt hại kinh tế mà những xu hướng này gây ra đang bắt đầu tích lũy - và nó làm tăng thêm sự đình đốn mà sẽ xảy ra khi một nền kinh tế phát triển nhanh, mãn hạn kỳ. Nền kinh tế Trung Quốc đã mất dần sức mạnh trong hơn một thập kỷ : Tốc độ tăng trưởng chính thức của nước này đã giảm từ 14% vào năm 2007 xuống còn 6% vào năm 2019, và các nghiên cứu nghiêm ngặt cho thấy tốc độ tăng trưởng thực sự hiện nay là gần 2%. Tồi tệ hơn, hầu hết sự tăng trưởng đó bắt nguồn từ chi tiêu kích thích của chính phủ. Theo dữ liệu từ Conference Board, tổng năng suất của các yếu tố giảm trung bình 1,3% mỗi năm kể từ năm 2008 đến 2019, có nghĩa là mỗi năm Trung Quốc đang chi tiêu nhiều hơn cho sản xuất ít hơn. Lần lượt, điều này đã dẫn đến khoản nợ khổng lồ : Tổng nợ của Trung Quốc đã tăng gấp tám lần từ năm 2008 đến năm 2019, và vượt quá 300% GDP vào trước COVID-19. Bất kỳ quốc gia nào đã tích lũy nợ hoặc mất năng suất ở bất cứ thứ gì gần với tốc độ hiện tại của Trung Quốc, thì sau đó phải chịu ít nhất một "thập kỷ thua thiệt" với tăng trưởng kinh tế gần như bằng không.

Hơn nữa, tất cả những điều này đang xảy ra khi Trung Quốc phải đối mặt với một môi trường bên ngoài ngày càng thù địch. Sự kết hợp của COVID-19, vi phạm nhân quyền dai dẳng và các chính sách hung hăng đã khiến quan điểm tiêu cực về Trung Quốc đạt đến mức chưa từng thấy, kể từ vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989. Các quốc gia lo ngại về sự cạnh tranh của Trung Quốc đã áp đặt hàng ngàn rào cản thương mại mới đối với hàng hóa của nước này kể từ năm 2008. Hơn một chục quốc gia đã rút khỏi Sáng kiến Vành đai và Con đường của Tập cận Bình, trong khi Mỹ tiến hành một chiến dịch toàn cầu chống lại các công ty công nghệ chủ chốt của Trung Quốc - đặc biệt là Huawei - và các nền dân chủ giàu có trên nhiều châu lục đã tạo ra các rào cản đối với ảnh hưởng kỹ thuật số của Bắc Kinh. Thế giới đang trở nên ít thuận lợi hơn cho sự tăng trưởng dễ dàng của Trung Quốc, và chế độ của Tập Cận Bình ngày càng phải đối mặt với loại bao vây chiến lược mà từng khiến cho các nhà lãnh đạo Đức và Nhật Bản trước đây tuyệt vọng.

Trường hợp điển hình là chính sách của Hoa Kỳ. Trong năm năm qua, hai chính quyền tổng thống Hoa Kỳ đã cam kết Mỹ đi theo một chính sách "cạnh tranh" - thực sự, kềm chế mới - chống lại Trung Quốc. Chiến lược quốc phòng của Mỹ hiện đang tập trung thẳng vào việc đánh bại sự xâm lược của Trung Quốc ở Tây Thái Bình Dương; Washington đang sử dụng một loạt các biện pháp trừng phạt thương mại và trừng phạt công nghệ để kiểm tra ảnh hưởng của Bắc Kinh, và hạn chế triển vọng ưu tiên kinh tế của Trung Quốc. Một sĩ quan cao cấp của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc cảnh báo, "một khi đế quốc Mỹ coi bạn là 'kẻ thù' của họ, bạn sẽ gặp rắc rối lớn". Thật vậy, Hoa Kỳ cũng đã cam kết dàn dựng sự kháng cự toàn cầu lớn hơn đối với sức mạnh của Trung Quốc, một chiến dịch đang bắt đầu cho thấy kết quả khi ngày càng có nhiều quốc gia phản ứng với mối đe dọa từ Bắc Kinh.

Trong lãnh vực hàng hải ở châu Á, sức đề kháng đối với sức mạnh của Trung Quốc đang trở nên gay gắt hơn. Đài Loan đang tăng chi tiêu quân sự và đặt kế hoạch biến mình thành một con nhím chiến lược ở Tây Thái Bình Dương. Nhật Bản đang tiến hành tăng cường quân sự lớn nhất kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, và đã đồng ý ủng hộ Mỹ nếu Trung Quốc tấn công Đài Loan. Các quốc gia xung quanh Biển Đông, đặc biệt là Việt Nam và Indonesia, đang tăng cường lực lượng không quân, hải quân và bảo vệ bờ biển để tranh chấp với các yêu sách chủ quyền bành trướng của Trung Quốc.

Các quốc gia khác cũng đang đẩy lùi sự quyết đoán của Bắc Kinh. Australia đang mở rộng các căn cứ ở phía bắc để cung cấp nơi trú đóng cho các tàu và máy bay của Mỹ, chế tạo tên lửa thông thường tầm xa và tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân. Ấn Độ đang tập trung lực lượng ở biên giới với Trung Quốc trong khi gửi tàu chiến qua Biển Đông. Liên minh châu Âu đã gắn nhãn Bắc Kinh là "đối thủ có hệ thống", và ba cường quốc lớn nhất châu Âu - Pháp, Đức và Anh - đã phái các lực lượng đặc nhiệm hải quân đến Biển Đông và Ấn Độ Dương. Một loạt các sáng kiến đa phương chống Trung Quốc - Đối thoại An ninh Bốn bên; liên minh chuỗi cung ứng; cái gọi là liên minh mới AUKUS với Washington, London và Canberra; và những nước khác - đang được tiến hành. Yan Xuetong, học giả cứng rắn với Trung quốc và có giao du với giới thượng lưu nước này thừa nhận vào tháng 7 rằng "chiến lược câu lạc bộ đa phương" của Mỹ đang "cô lập Trung Quốc" và làm tổn thương sự phát triển của nước này.

Không còn nghi ngờ gì nữa, hợp tác chống Trung Quốc vẫn chưa hoàn hảo. Nhưng xu hướng chung là rõ ràng : Một loạt các tác nhân đang dần dần hợp lực để kiểm tra sức mạnh của Bắc Kinh và đặt nó vào một chiếc hộp chiến lược. Nói cách khác, Trung Quốc không phải là một quốc gia thăng hoa mãi mãi. Nó là một cường quốc vốn đã mạnh mẽ, cực kỳ tham vọng và gặp rắc rối sâu sắc mà cửa sổ cơ hội của nó sẽ không còn mở lâu được nữa.

Một ban nhạc quân đội Trung Quốc chơi nhạc sau bài phát biểu của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại phiên khai mạc Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 19 tại Bắc Kinh vào ngày 18 tháng 10 năm 2017. ẢNH: KEVIN FRAYER/GETTY IMAGES

Theo một cách nào đó, tất cả những điều này là tin vui đối với Washington : Một Trung Quốc đang chậm lại về kinh tế và phải đối mặt với sự kháng cự toàn cầu ngày càng tăng, sẽ thấy cực kỳ khó khăn để thay thế Hoa Kỳ trở thành cường quốc hàng đầu thế giới - miễn là Hoa Kỳ không tự xé nát mình hoặc không nhường trò chơi cho Trung quốc. Tuy nhiên, theo những cách khác, tin tức đáng lo ngại hơn. Lịch sử cảnh báo thế giới nên nghĩ rằng trong thập kỷ tới, một Trung Quốc đang ở đỉnh cao có thể hành động táo bạo hơn, thậm chí thất thường hơn - lao vào các giải thưởng chiến lược mà nó đã tìm kiếm từ lâu, trước khi vận may của nó mờ dần.

Chuyện này có thể trông như thế nào? Chúng ta có thể đưa ra những dự đoán có kinh nghiệm dựa trên những gì Trung Quốc hiện đang làm.

Bắc Kinh đã tăng gấp đôi nỗ lực của nó để thiết lập một phạm vi ảnh hưởng kinh tế trong thế kỷ 21 bằng cách thống trị các công nghệ quan trọng - như trí tuệ nhân tạo, điện toán lượng tử và viễn thông 5G - và sử dụng đòn bẩy với kết quả là uốn cong các quốc gia theo ý muốn của nó. Trung quốc cũng sẽ chạy đua nhằm hoàn thiện một "chủ nghĩa độc tài kỹ thuật số" để có thể bảo vệ sự cai trị bấp bênh của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở trong nước, trong khi củng cố vị thế ngoại giao của Bắc Kinh bằng cách xuất khẩu mô hình đó cho các đồng minh chuyên quyền của nó trên khắp thế giới.

Về mặt quân sự, Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể ngày càng trở nên mạnh tay trong việc bảo đảm các tuyến tiếp tế đường dài, dễ bị tổn thương và bảo vệ các dự án cơ sở hạ tầng ở Trung và Tây Nam Á, Châu Phi và các khu vực khác, một vai trò mà một số người hiếu chiến trong Quân đội Giải phóng Nhân dân mong muốn đảm nhận. Bắc Kinh cũng có thể trở nên quyết đoán hơn đối với Nhật Bản, Philippines và các quốc gia khác cản trở yêu sách chủ quyền của nó ở Biển Đông và Biển Hoa Đông.

Đáng lo ngại nhất, Trung Quốc sẽ bị cám dỗ sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề Đài Loan theo các chuẩn mực của nó trong thập kỷ tới, trước khi Washington và Đài Bắc có thể hoàn thành việc trang bị lại quân đội của họ để cung cấp một hệ thống phòng thủ mạnh mẽ hơn. Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã tăng cường cường độ tập trận quân sự ở eo biển Đài Loan. Ông Tập đã nhiều lần tuyên bố Bắc Kinh không thể chờ đợi mãi việc "tỉnh nổi loạn" của Trung quốc trở lại với quê nhà. Khi cán cân quân sự tạm thời chuyển sang hướng có lợi cho Trung Quốc vào cuối những năm 2020 và khi Ngũ giác đài dùng vũ lực với các tàu và máy bay cũ, Trung Quốc có thể không bao giờ có cơ hội tốt hơn để chiếm Đài Loan và Washington phải nhận lấy một thất bại nhục nhã khi đối phó với Bắc Kinh.

Nói rõ hơn, Trung Quốc có lẽ sẽ không thực hiện một cuộc tấn công quân sự toàn diện trên khắp châu Á, như Nhật Bản đã làm trong những năm 1930 và đầu những năm 1940. Nhưng nó sẽ hành động gây rủi ro lớn hơn và chấp nhận những căng thẳng lớn hơn khi nó xét thấy bị ngăn chặn trong việc thâu tóm những lợi ích quan trọng. Rồi sẽ phải đến với địa chính trị trong thời đại của một Trung Quốc đang ở đỉnh cao : một quốc gia đã có khả năng thách thức dữ dội trật tự hiện có, và là một quốc gia có thể sẽ hành động nhanh hơn và thúc đẩy mạnh mẽ hơn khi nó tin rằng thời gian không còn đứng về phía mình.

Do đó, Mỹ sẽ phải đối mặt với không chỉ một mà hai nhiệm vụ trong việc đối phó với Trung Quốc vào những năm 2020. Mỹ sẽ phải tiếp tục huy động cho sự cạnh tranh lâu dài, trong khi cũng phải có động thái nhanh chóng để ngăn chặn sự xâm lược và làm giảm một số động thái hung hăng, ngắn hạn hơn mà Bắc Kinh có thể thực hiện. Nói cách khác, hãy thắt đai an toàn. Hoa Kỳ đã tự đánh thức để đối phó với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Đúng là sắp phát hiện ra rằng, một Trung Quốc đang suy giảm thậm chí có thể còn nguy hiểm hơn.

  • * * *

_ Hal Brands là giáo sư xuất sắc của Henry Kissinger về các vấn đề toàn cầu tại Trường Nghiên cứu Quốc tế Cao cấp của Đại học Johns Hopkins. Ông cũng là một học giả thường trú tại Viện Doanh nghiệp Mỹ và là một nhà bình luận của Bloomberg Opinion.

_ Michael Beckley là phó giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Tufts, một học giả thỉnh giảng của Jeane Kirkpatrick tại Viện Doanh nghiệp Mỹ, và là tác giả của Unrivaled: "Tại sao Mỹ sẽ vẫn là siêu cường duy nhất của thế giới."

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.