Tham nhũng từ góc nhìn người dân, doanh nghiệp và cán bộ công chức,viên chức. Phần II.


Lòng tham là mẹ ; Độc tài vừa là cha vừa là "thầy" dạy dổ mánh lới, bảo kê cho "tham nhũng"...BHM

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT.Tháng 9 năm 2012.
Nguồn WB

Phần II
Các kết quả khảo sát.


2.1. Cảm nhận và trải nghiệm về tham nhũng.

Hiểu rõ mức độ, hình thức và bản chất của tham nhũng sau sáu năm thực hiện Luật PCTN có ý nghĩa hết sức quan trọng để chúng ta có thể nhận diện được những thách thức mới đối với Việt Nam. Như đã đề cập trong phần giới thiệu tổng quan, các kết quả thể hiện quan điểm của 10 tỉnh trong cuộc khảo sát mà không nhất thiết đại diện cho cả Việt Nam. Do 10 tỉnh trong cuộc khảo sát có dân số chiếm 30% tổng dân số của cả nước và đóng góp 65% GDP của cả nước, các kết quả này lại rất ý nghĩa.

Phần này bắt đầu bằng việc so sánh mức độ quan tâm của công chúng với các vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc khác và thăm dò ý kiến của mọi người về "tham nhũng". Sau đó, báo cáo trình bày những phát hiện chính liên quan đến cảm nhận của đối tượng được khảo sát về mức độ phổ biến và nghiêm trọng của tham nhũng ở các cấp và các ngành khác nhau. Ngoài ra, cuộc khảo sát không chỉ tìm hiểu cảm nhận về tham nhũng mà còn đặt câu hỏi về những trải nghiệm với tham nhũng. Tiếp theo, phần này sẽ tập trung vào nguồn thông tin hình thành nên nhận thức về tham nhũng của các đối tượng. Sau đó, phần này sẽ phân tích những đánh giá của doanh nghiệp về nhóm lợi ích - một thách thức đang nổi lên hiện nay.

2.1.1. Cảm nhận về tham nhũng.

2.1.1.1. So với các vấn đề khác, tham nhũng thu hút sự quan tâm của dư luận đến đâu?

Tham nhũng là một hiện tượng tồn tại ở tất cả các nước, song mức độ tham nhũng thì có khác nhau. Tham nhũng đã được thừa nhận là một trở ngại đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững của quốc gia, làm giảm hiệu lực của nền hành chính công và khiến chi tiêu công trở nên kém hiệu quả. Ðặc biệt, tham nhũng làm xói mòn nền pháp quyền và gây tổn hại đến uy tín của nhà nước cũng như làm giảm niềm tin của người dân vào hệ thống chính trị, nhất là các cơ quan nhà nước.

Bên cạnh tham nhũng, xã hội cũng phải đối mặt đồng thời với rất nhiều vấn đề bức xúc khác. Ðể đánh giá toàn diện hơn mối quan ngại về tham nhũng, cả ba nhóm đối tượng phỏng vấn đều được yêu cầu thể hiện mức độ quan tâm của họ với 10 vấn đề mà xã hội đang gặp phải. Kết quả cho thấy tham nhũng thu hút được rất nhiều sự quan tâm của xã hội. Cho dù tham nhũng không phải là vấn đề được quan tâm thường xuyên nhất nếu so với những vấn đề khác mà xã hội đang đối mặt, nhưng xét về con số tương đối thì mức độ quan tâm vẫn rất cao: khoảng 75% số người được hỏi trong ba nhóm đối tượng đều cho biết họ quan tâm hoặc rất quan tâm đến vấn đề tham nhũng.

Mặc dù một số người dân quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề khác, như chất lượng giáo dục, giá cả sinh hoạt, an toàn thực phẩm... nhưng rõ ràng tham nhũng vẫn được xem là một vấn đề nghiêm trọng. Khi được hỏi về ba vấn đề bức xúc nhất với Việt Nam hiện nay thì hơn 1/3 số người được hỏi đã chọn tham nhũng (Hình 1). Số CBCC chọn tham nhũng là một trong những vấn đề bức xúc nhất của quốc gia cao hơn bất cứ vấn đề nào khác trong danh sách 10 vấn đề được nêu. Ðối với doanh nghiệp, tham nhũng được chọn là vấn đề bức xúc thứ hai, chỉ sau giá cả sinh hoạt. Kết quả này không đáng ngạc nhiên - do những đợt lạm phát gần đây đã gây ra bất ổn lớn cho doanh nghiệp. Ðối với người dân, khi chọn ba vấn đề bức xúc nhất ở Việt Nam thì tham nhũng đứng thứ ba, chỉ sau giá cả sinh hoạt và tai nạn giao thông. Rõ ràng, từ quan điểm của những người được phỏng vấn, tham nhũng vẫn là một trong những mối quan ngại lớn nhất của toàn xã hội.

Hình 1. Ba vấn đề bức xúc nhất đối với Việt Nam, theo quan điểm của CBCC, doanh nghiệp và người dân (%)


Thực ra, nhiều vấn đề khác mà Việt Nam đang gặp phải, như đã nêu trong Hình 1, đều có thể liên quan đến tham nhũng. Thí dụ, nếu mọi người lo ngại về tai nạn giao thông thì họ cần có niềm tin rằng các cơ quan quản lý giao thông và thực thi Luật giao thông đang ra quyết định để tăng mức độ an toàn giao thông chứ không phải để tham nhũng. Phần sau của Báo cáo sẽ trình bày nhận thức về tham nhũng trong lĩnh vực cảnh sát giao thông, y tế, giáo dục và thị trường việc làm trong cơ quan nhà nước. Vì tham
nhũng làm giảm chất lượng các dịch vụ như y tế, giáo dục, làm phương hại đến sự công bằng hay coi trọng tài năng trong thị trường việc làm trong cơ quan nhà nước, hoặc làm giảm tính nhất quán trong thực thi luật giao thông nên tham nhũng cũng đang góp phần
gây ra nhiều vấn đề xã hội khác ở Việt Nam.

2.1.1.2. "Tham nhũng" được mọi người hiểu như thế nào?

Mặc dù Luật PCTN đã nêu rõ khái niệm tham nhũng và quy định cụ thể 12 hành vi tham nhũng, nhưng việc tìm hiểu xem mọi người hiểu thuật ngữ này như thế nào cũng rất quan trọng. Trước hết, cuộc khảo sát đã hỏi đối tượng được phỏng vấn về nhận thức của họ về tham nhũng - nắm được cách diễn giải từ "tham nhũng" sẽ giúp chúng ta lý giải được các câu hỏi khác trong cuộc khảo sát. Thứ hai, cách diễn giải từ "tham nhũng" đã ngầm cho biết xã hội nghĩ hành vi nào chấp nhận được, hành vi nào không. Việc nắm chắc hơn nhận thức của người dân, các nhà quản lý doanh nghiệp và CBCC ở Việt Nam về thuật ngữ này, sẽ giúp chúng ta xây dựng chiến lược và chiến dịch truyền thông phù hợp để nhằm thay đổi nhận thức của công chúng.

Tất cả các nhóm đối tượng được phỏng vấn đều được trao đổi về tám tình huống giả định khác nhau và sau đó đánh giá các tình huống đó theo các phương án "chắc chắn là tham nhũng", "chắc chắn không phải là tham nhũng" hay "trong một số trường hợp là tham nhũng". Các ý kiến trả lời cho thấy nhiều tình huống bị coi là "tham nhũng" với mức độ thống nhất cao, ngay cả khi theo Luật PCTN năm 2005 chúng chưa bị coi là tham nhũng. Còn các tình huống khác, tuy có thể không thích hợp, nhưng chưa đủ để tạo nên hành vi tham nhũng. Việc tặng quà không bị cấm và những hành vi này chỉ bị coi là tham nhũng nếu các cơ quan hoặc CBCC bị phát hiện là đã bóp méo quy định để thu lợi cá nhân. Việc nhiều hành vi vẫn bị quy cho là "tham nhũng" mặc dù Luật không quy định chứng tỏ chuẩn mực về các dịch vụ công đang có sự thay đổi.

Có nhiều điểm đáng lưu ý từ kết quả ở Hình 2. Thứ nhất, trong các nhóm đối tượng phỏng vấn, người dân có xu hướng quy một hiện tượng nào đó là "tham nhũng" nhiều hơn so với hai đối tượng kia. Ðiều này đúng cho cả 8 tình huống giả định, và sự khác biệt lớn nhất là khi bàn đến việc chi trả ngoài quy định cho dịch vụ y tế: trong khi chỉ có 32,1% số CBCC coi việc trả chi phí ngoài quy định khi khám chữa bệnh là "tham nhũng" thì có đến 45,3% người dân đồng ý như vậy.

Hình 2. "Tham nhũng" là gì? (tỷ lệ phần trăm số người cho rằng "chắc chắn đó là tham nhũng")


Thứ hai, ngay cả trong những tình huống có vẻ như rõ ràng đã làm trái quy định, một số người vẫn không cho những hành vi đó là "tham nhũng". Thí dụ, chỉ có 2/3 số CBCC và doanh nghiệp coi việc một giáo viên nhận quà để sửa điểm cho sinh viên là "tham nhũng". Số còn lại hoặc cho rằng đây không phải là tham nhũng hoặc chỉ nói rằng "trong một số trường hợp, đó là tham nhũng".

Kết quả này cũng nêu bật sự cần thiết phải xây dựng được một hiểu biết chung về tham nhũng. Có thể điều đáng khích lệ ở đây là những người làm việc trong một lĩnh vực nhất định có xu hướng ít sẵn sàng tha thứ cho một hành vi nào đó hơn là công chúng nói chung. Thí dụ, CBCC làm việc trong ngành y tế có tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với CBCC nói chung khi cho rằng cán bộ y tế nhận khoản tiền 300.000 đồng ngoài quy định "chắc chắn là tham nhũng". Trong khi chỉ có 31% CBCC nói chung coi hành vi trên "chắc chắn là tham nhũng" thì có đến 42% CBCC làm việc trong ngành y tế có quan điểm như vậy. Ðiều này cũng đúng trong ngành giáo dục, mặc dù sự khác biệt thì không lớn như trong ngành y tế : một giáo viên nhận quà để nâng điểm cho sinh viên bị coi "chắc chắn là tham nhũng" bởi 72% CBCC làm việc trong ngành giáo dục, so với tỷ lệ 69% của CBCC nói chung. Ðồng thời, cũng có bằng chứng cho thấy những ai từng chi trả một khoản chi phí ngoài quy định nào đó thì ít có xu hướng coi khoản tiền đó là "tham nhũng". Thí dụ, trong số những người dân có xin nhà trường một điều gì đó liên quan đến chuyện học hành của con cháu họ thì có 69% nói việc giáo viên nhận quà để nâng điểm cho sinh viên "chắc chắn là tham nhũng" trong khi tỷ lệ này ở các nhóm dân cư còn lại là 75% (Sự khác biệt tương tự trong ngành y tế nhưng không có ý nghĩa thống kê). Cho dù kiểu hành vi như vậy có được luật pháp chính thức công nhận là tham nhũng hay không thì việc có cách hiểu thống nhất về hành vi nào được chấp nhận và hành vi nào không sẽ giúp hạn chế việc công chúng sẵn sàng tiếp tay đưa tiền cho các đối tượng nhận hối lộ.

2.1.1.3. CBCC và người dân nhận thức ra sao về mức độ phổ biến và nghiêm trọng của tham nhũng?

Một khía cạnh quan trọng của cuộc khảo sát là tìm hiểu xem công chúng nhận thức như thế nào về mức độ phổ biến (mức độ thường xuyên diễn ra) và nghiêm trọng (mức độ thiệt hại gây ra) của tham nhũng ở Việt Nam. Người dân được hỏi về nhận thức của họ liên quan đến mức độ phổ biến và nghiêm trọng của tham nhũng trong phạm vi cả nước, ở tỉnh/thành phố, quận/huyện và phường/xã nơi họ đang sinh sống. Tương tự, CBCC được hỏi về đánh giá của họ ở ba phạm vi : cả nước, tại địa phương nơi họ đang công tác và trong ngành (như tài nguyên môi trường, tài chính...). Kết quả cho thấy mọi người nhìn nhận tham nhũng là quốc nạn, nhưng ít sẵn sàng nhận diện tham nhũng như một vấn đề của địa phương mình, của ngành mình Ðại bộ phận (82,3%) người dân trong mẫu khảo sát đều tin rằng tham nhũng phổ biến hoặc rất phổ biến ở phạm vi cả nước (6).

Tuy nhiên, họ đánh giá mức độ phổ biến của tham nhũng ít dần khi hỏi tới những cấp thấp hơn: ở tỉnh/thành phố của họ (61%), ở quận/huyện (34,8%), và ở phường/xã (14%). Khá ngạc nhiên là tỷ lệ người dân trả lời "không biết" đã tăng từ 6,2% khi được hỏi về mức độ phổ biến của tham nhũng trong phạm vi cả nước lên 9% khi hỏi về tỉnh/thành phố nơi họ đang sinh sống, 14,8% khi hỏi về quận/huyện và tới 16,9% khi hỏi về phường/xã của họ. Ðiều này có thể phản ánh một điều là một số người dân ngần ngại khi đề cập đến tham nhũng ở địa phương của họ.

Hiểu rõ các đối tượng phỏng vấn nhận thức như thế nào về tham nhũng theo các đặc điểm khác nhau sẽ giúp nhận diện được nhóm nào chịu tác động lớn nhất từ tham nhũng. Những người tự nhận mình thuộc nhóm người nghèo thấy tham nhũng ở phạm vi cả nước và tỉnh/thành phố tương đối ít phổ biến hơn so với những người tự đánh giá thuộc nhóm giàu. Tuy nhiên, những người nghèo lại thấy tham nhũng phổ biến hơn ở cấp phường/xã (17%) so với đối tượng thu nhập trung bình (15%) và so với nhóm người giàu (10%). Một cách giải thích là ở cấp phường/xã, người nghèo chịu tác động thường xuyên hơn và nghiêm trọng hơn bởi tham nhũng, trong khi các quyết định đưa ra ở cấp chính quyền cao hơn lại có tác động mạnh hơn đến các đối tượng thu nhập trung bình và giàu có.
Hình 3. Cảm nhận của người dân về mức độ phổ biến của tham nhũng (tỷ lệ phần trăm số người cho tham nhũng là phổ biến, theo nhóm thu nhập)


Hình 4. Cảm nhận của người dân về mức độ nghiêm trọng của tham nhũng (tỷ lệ phần trăm số người cho tham nhũng là nghiêm trọng, theo nhóm thu nhập)


Ðánh giá của người dân về mức độ nghiêm trọng của tham nhũng (nhấn mạnh đến tham nhũng quy mô lớn gây thiệt hại lớn nhất cho xã hội) cũng cho thấy tình hình tương tự, trong đó số người dân coi tham nhũng ở phạm vi cả nước là nghiêm trọng và rất nghiêm trọng (7) chiếm tỷ lệ cao (86,5%), thấp hơn đáng kể ở phạm vi tỉnh/thành phố (66,7%) và quận/huyện (44,1%), và đặc biệt thấp ở cấp phường/xã (19,8%). Tương tự, số người trả lời "không biết" khi hỏi về mức độ nghiêm trọng của tham nhũng ở phạm vi phường/xã là cao nhất (17,5%), rồi đến quận/huyện (15%), tỉnh/thành phố (9%) và cuối cùng là phạm vi cả nước (6,5%).

Tương tự, so sánh giữa các nhóm thu nhập cho thấy một sự khác biệt rõ ràng giữa các nhóm thu nhập trong cảm nhận về mức độ nghiêm trọng của tham nhũng trong phạm vi cả nước và cấp phường/xã. Ở phạm vi cả nước, người giàu có xu hướng bức xúc hơn người có thu nhập trung bình, và đối tượng này đến lượt mình lại tỏ ra bức xúc hơn người nghèo khi hỏi về mức độ nghiêm trọng của tham nhũng (Hình 4). Ở cấp phường/xã, xu hướng này đảo ngược: 23% số người nghèo coi tham nhũng nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, trong khi con số này ở người thu nhập trung bình là 21% và người giàu chỉ là 12%.

Một lần nữa, người nghèo dường như phải chịu thiệt hại nhiều hơn các đối tượng khác bởi tình trạng tham nhũng ở cấp phường/xã.
CBCC cũng được hỏi câu hỏi tương tự liên quan đến cảm nhận của họ về mức độ phổ biến của tham nhũng ở phạm vi cả nước, tại địa phương nơi họ làm việc và trong ngành của họ. Kết quả, 78% CBCC đánh giá tham nhũng ở phạm vi cả nước là phổ biến. Con số này thấp hơn nhiều khi được hỏi về mức độ phổ biến của tham nhũng ở phạm vi địa phương (37,5%) và trong ngành (20,4%). So sánh ý kiến của CBCC ở các cấp chính quyền địa phương khác nhau cho một số kết quả đáng lưu ý. Trong khi tỷ lệ tương đối thấp CBCC cấp quận/huyện và phường/xã coi tham nhũng ở địa phương họ là phổ biến thì tỷ lệ này lại cao hơn đối với CBCC ở cấp trung ương và cấp tỉnh/thành phố : 72% CBCC cấp trung ương và 56% cấp tỉnh/thành phố coi tham nhũng ở địa phương họ là phổ biến. Tương tự, nhiều CBCC cấp trung ương (39%) và cấp tỉnh/thành phố (32%) đánh giá tham nhũng trong ngành của họ là phổ biến hơn CBCC cấp quận/huyện và phường/xã (27%).

Hình 5. Cảm nhận của CBCC cấp trung ương và cấp địa phương về mức độ phổ biến của tham nhũng (tỷ lệ phần trăm CBCC cho tham nhũng là phổ biến) Ghi chú: Các cột trong hình chỉ hiển thị tỷ lệ số người trả lời tham nhũng là "phổ biến" và "rất phổ biến" trong số các phương án đưa ra, bao gồm cả "hoàn toàn không phổ biến", "rất ít phổ biến", "ít phổ biến" và "khó trả lời";


Hình 6. Cảm nhận của CBCC cấp trung ương và cấp địa phương về mức độ nghiêm trọng của tham nhũng (tỷ lệ phần trăm CBCC cho tham nhũng là nghiêm trọng) Ghi chú: Các cột trong hình chỉ hiển thị tỷ lệ số người trả lời tham nhũng là "nghiêm trọng", "rất nghiêm trọng" và "đặc biệt nghiêm trọng", trong số các phương án đưa ra, bao gồm cả "không nghiêm trọng", "ít nghiêm trọng", và "khó trả lời".


So sánh giữa CBCC nam và nữ cho thấy có sự khác biệt nhất định trong nhận thức của họ về mức độ phổ biến của tham nhũng trong phạm vi cả nước (80% đối với nữ và 77% đối với nam). Nam công chức có xu hướng đánh giá tham nhũng phổ biến hơn so với nữ công chức khi đánh giá ở cấp địa phương (40% đối với nam và 33% đối với nữ) và trong ngành (22% đối với nam, 17% đối với nữ). Cần có những nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt giới tính trong nhận thức về tham nhũng này.

Hình thái về mức độ nghiêm trọng của tham nhũng cũng tương tự như hình thái về mức độ phổ biến: 86,6% CBCC coi tham nhũng là nghiêm trọng ở phạm vi cả nước, 46,7% ở cấp địa phương và 28,4% khi đánh giá trong ngành. So sánh ý kiến của CBCC cấp trung ương và các cấp địa phương cho thấy một cái nhìn có tính phê phán hơn của CBCC cấp trung ương và cấp tỉnh/thành phố. Cả bốn nhóm (CBCC cấp phường/xã, quận/huyện,tỉnh/thành phố và trung ương) đều thể hiện nhận thức ít nhiều giống nhau về mức độ nghiêm trọng của tham nhũng ở phạm vi cả nước. Tuy nhiên, có nhiều CBCC cấp trung ương (68%) và cấp tỉnh/thành phố (50%) coi tham nhũng ở phạm vi địa phương là nghiêm trọng hơn so với CBCC cấp quận/huyện (35%) và phường/xã (31%). CBCC cấp trung ương cũng tỏ ra nghiêm khắc hơn khi nói về ngành của họ, với 33% số CBCC cho rằng tham nhũng trong ngành là nghiêm trọng. Những con số này ở các nhóm đối tượng khác chỉ khoảng 20%.

Nói tóm lại, khoảng 80-86% số người dân và CBCC coi tham nhũng ở phạm vi cả nước là phổ biến và nghiêm trọng. Tuy nhiên, tỷ lệ người dân và CBCC coi tham nhũng là phổ biến và nghiêm trọng ở địa phương và trong ngành (đối với CBCC) của họ thì thấp hơn nhiều. Tuy vậy, ngay cả trong trường hợp tốt nhất thì cũng có đến khoảng 20% số người được hỏi trong khảo sát người dân đánh giá tham nhũng ở phường/xã họ là nghiêm trọng và trên 25% số CBCC coi tham nhũng trong ngành họ là nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng. Người nghèo có phần ít quan tâm đến tham nhũng ở phạm vi cả nước hơn là người giàu. Một cách giải thích, như chúng ta thấy trong Mục 2.1.1.4, là người nghèo chịu tác động thường xuyên và nặng nề hơn bởi tình hình tham nhũng ở cấp
phường/xã, trong khi các loại dịch vụ mà người giàu sử dụng là do cấp tỉnh cung cấp.

2.1.1.4. Tham nhũng trong ngành, lĩnh vực nào được đánh giá là phổ biến nhất?

Tham nhũng có thể đi từ các dạng lũng đoạn chính trị cấp cao đến những khoản hối lộ cấp thấp. Tham nhũng diễn ra dưới nhiều hình thức và khác nhau rất nhiều giữa các ngành, lĩnh vực cũng như giữa các nạn nhân của tham nhũng. Trong cuộc khảo sát này, cả ba nhóm đối tượng đều được hỏi về quan điểm của họ xem tham nhũng trong các ngành, lĩnh vực phổ biến đến mức nào. Theo ý kiến của đối tượng khảo sát, mức độ phổ biến của tham nhũng khác nhau giữa các ngành, và có sự nhất quán cao giữa cả ba nhóm đối tượng phỏng vấn về mức độ phổ biến của tham nhũng ở các ngành, lĩnh vực (Hình 7)

Hình 7. Mức độ phổ biến của tham nhũng trong các ngành, lĩnh vực theo ý kiến của CBCC, doanh nghiệp và người dân (tỷ lệ phần trăm số người cho tham nhũng là phổ biến trong số những người có ý kiến)


Theo ý kiến của các đối tượng phỏng vấn, bốn ngành, lĩnh vực tham nhũng phổ biến nhất là cảnh sát giao thông, quản lý đất đai, hải quan và xây dựng. Trên 75% số đối tượng trong cả ba nhóm cho rằng tham nhũng trong những ngành, lĩnh vực này là phổ biến. Doanh nghiệp đánh giá hai ngành tài chính và ngân hàng ít tham nhũng hơn so với quan điểm của CBCC và người dân. Bốn ngành, lĩnh vực ít tham nhũng nhất là bưu điện, báo chí, kho bạc và cảnh sát khu vực.

Mỗi nhóm đối tượng đều được hỏi quan điểm của họ về ba ngành, lĩnh vực tham nhũng phổ biến nhất trong số 22 ngành điển hình, và kết quả được nêu trong Hình 8. Các nhóm đều thống nhất cho rằng tham nhũng trong cảnh sát giao thông và quản lý đất đai là rất phổ biến, sau đó là đến ngành xây dựng và hải quan. Như đã nêu ở phần trước, phương pháp khảo sát chú trọng đến tham nhũng mà nhiều doanh nghiệp và người dân trải nghiệm, nhưng không nhất thiết đó là những dạng tham nhũng nghiêm trọng nhất.

Thí dụ, thu hồi đất đai, quản lý sai hoặc tham ô tài sản nhà nước có thể rất tai hại kể cả khi chúng ít được nêu bật trong khảo sát. Hình 8 chú trọng vào cảm nhận về những ngành tham nhũng nhất mà có sự cọ xát nhiều nhất với xã hội, do đó không có gì phải nghi ngờ rằng những dạng tham nhũng này sẽ gây sự bất bình lớn trong công chúng nếu không được xử lý thích hợp.

Hình 8. Ngành tham nhũng nhất theo quan điểm của CBCC, doanh nghiệp và người dân (tỷ lệ phần trăm số ý kiến chọn là 1 trong 3 ngành tham nhũng nhất)


2.1.2. Trải nghiệm về tham nhũng.

Biết rõ công chúng -- người dân, doanh nghiệp và CBCC -- nhận thức như thế nào về tham nhũng là cực kỳ quan trọng, vì đó là cách nhìn mà dựa vào đó, doanh nghiệp ra các quyết định đầu tư, và người dân ra quyết định tìm kiếm dịch vụ... Ðồng thời, hiểu rõ về trải nghiệm thực tế cũng rất cần thiết để nắm được ở đâu người dân thực sự phải đối mặt với tham nhũng và tham nhũng diễn ra như thế nào. Hiểu rõ hơn về cách thức vận hành của tham nhũng cũng giúp định hướng và đưa ra giải pháp cho vấn đề này. Mục này trình bày các kết quả khảo sát về việc doanh nghiệp, người dân và CBCC đã trải nghiệm như thế nào về tham nhũng và mỗi nhóm đối tượng đã nói gì về các hình thức tham nhũng.

2.1.2.1. Doanh nghiệp nhận được những yêu cầu gì từ phía cán bộ, công chức?

Có những loại yêu cầu gì, liệu đó có phải là tham nhũng không, mà doanh nghiệp nhận được từ phía các CBCC? Doanh nghiệp được hỏi trong 12 tháng qua họ có nhận được các dạng "yêu cầu" khác nhau từ CBCC hay không. Những yêu cầu này bao gồm việc doanh nghiệp bán tài sản hoặc đất đai cho CBCC với giá rẻ, tuyển dụng hoặc đề bạt họ hàng hoặc người quen của công chức, và chi trả các khoản chi tiêu nhất định cho cá nhân hoặc cơ quan của CBCC. Không đầy 5% số doanh nghiệp nhận được đề nghị bán tài sản với giá rẻ, hoặc cho cá nhân công chức thuê tài sản và máy móc thiết bị, và tỷ lệ số doanh nghiệp nhận được đề nghị chi trả cho CBCC các chi phí nghiên cứu, tham quan hoặc chi tiêu cá nhân cũng chỉ cao hơn một chút. Gần 8% số doanh nghiệp nhận được đề nghị tuyển dụng họ hàng hoặc người thân của CBCC. Hơn 15% số doanh nghiệp đã trải qua tình huống trong đó CBCC lợi dụng quyền lực, tên tuổi hoặc uy tín đơn vị họ để gợi ý doanh nghiệp trả tiền hoặc tặng quà cho họ. Tổng hợp lại, 23% số doanh nghiệp đã cho rằng họ phải gặp phải một trong sáu dạng yêu cầu từ phía công chức trong 12 tháng qua.

Hình 9. Yêu cầu với doanh nghiệp (%)


2.1.2.2. Vì sao doanh nghiệp đưa hối lộ và đưa cho ai?

Phần trước của Báo cáo cho thấy một số doanh nghiệp nhận được yêu cầu trục lợi từ phía công chức. Nhưng vì sao một số CBCC lại tin rằng doanh nghiệp sẽ làm theo những yêu cầu đó và vì sao trên thực tế, doanh nghiệp lại chấp nhận?

Doanh nghiệp được hỏi về những loại khó khăn nào mà các cơ quan nhà nước hay gây ra cho họ, và có khoảng một nửa số doanh nghiệp đã trả lời câu hỏi đó. Nửa còn lại hoặc không gặp bất cứ khó khăn nào hoặc không nhớ. Trong số những doanh nghiệp có
trả lời, 63% cho rằng công chức cố tình kéo dài thời gian giải quyết công việc, 58% nói công chức không hướng dẫn cụ thể thủ tục nhưng cố tình soi xét, bắt lỗi để từ chối giải quyết, và 28% cho rằng công chức bám vào các quy định không chặt chẽ, không rõ ràng để bắt bí doanh nghiệp (Hình 10)

Hình 10. Khó khăn do CBCC gây ra cho doanh nghiệp (trong số các doanh nghiệp có giao dịch với cơ quan nhà nước)


Doanh nghiệp gặp khó khăn do các cơ quan nhà nước gây ra được hỏi xem họ xử lý những khó khăn đó như thế nào (Hình 11). 78% doanh nghiệp chọn cách tiếp tục chờ đợi, và 86% doanh nghiệp sẽ đưa ra các lý lẽ thuyết phục để cơ quan quản lý giải quyết.
Ðáng chú ý, có khoảng 51% doanh nghiệp nhờ người có ảnh hưởng tác động để giải quyết, và 59% doanh nghiệp chọn cách đưa quà hoặc tiền cho cán bộ có thẩm quyền giải quyết công việc. Chỉ có 13% doanh nghiệp tìm đến các cơ quan bảo vệ pháp luật và chưa tới 6% đề nghị cơ quan báo chí can thiệp.

Hình 11. Phản ứng của doanh nghiệp trước những khó khăn do cơ quan quản lý nhà nước gây ra (%)


Doanh nghiệp được hỏi họ có trả tiền ngoài quy định cho các cơ quan quản lý nhà nước hay không, và nếu có thì vì sao (Hình 12). Khoảng 32% doanh nghiệp có chi trả chi phí ngoài quy định nói rằng đây là cách nhanh nhất và dễ thực hiện nhất để được việc. Khoảng 26% tin rằng chi phí ngoài quy định rất nhỏ so với lợi ích mang lại khi công việc được giải quyết, và các doanh nghiệp khác cũng làm như vậy. Khoảng 18% doanh nghiệp tin rằng nếu không có những khoản chi trả ngoài quy định như thế thì không giải quyết được công việc.

Hình 12. Vì sao doanh nghiệp chi trả ngoài quy định (%)


Như đã nêu từ trước, nhiều doanh nghiệp dính líu vào tham nhũng như một cách giải quyết công việc thuận tiện. Các đối tượng phỏng vấn trong khu vực doanh nghiệp được hỏi về tác động của chi phí không chính thức đến doanh nghiệp của họ (Hình 13).
Khoảng 60% số doanh nghiệp được hỏi tin rằng chi phí không chính thức khá tốn kém. Tuy nhiên, hơn 50% cho rằng lợi ích từ chi phí không chính thức lớn hơn so với chi phí bỏ ra. Gần 63% số doanh nghiệp trả lời tin rằng chi phí không chính thức "tạo ra cơ chế ngầm giải quyết được công việc một cách nhanh chóng", và hơn 53% cho rằng nó khiến cán bộ tích cực thực hiện công việc. Vì thế, đứng từ cách nhìn ngắn hạn của doanh nghiệp, trả chi phí không chính thức mang lại nhiều lợi ích hơn cho doanh nghiệp so với việc không trả chi phí.

Hình 13. Tác động của chi phí không chính thức đến doanh nghiệp


Việc một số doanh nghiệp coi tham nhũng mang lại một số lợi ích không có nghĩa tham nhũng là hiệu quả, vì tham nhũng có thể làm đạo đức xuống cấp và khiến hệ thống hành chính về bản chất trở nên bất công. Nhiều doanh nghiệp đã công nhận điều đó : khoảng 37% nói rằng chi phí không chính thức làm hư hỏng cán bộ của doanh nghiệp, và 28% nghĩ chi phí không chính thức đang gây trở ngại khi giải quyết công việc. Hơn nữa, có đến 57% doanh nghiệp nghĩ chi phí không chính thức gây ra sự bất công trong giải quyết công việc của các cơ quan nhà nước. Một hệ thống hành chính như vậy không chỉ tạo ra sự bất công mà còn tạo động cơ để cán bộ, công chức có chức, có quyền tùy tiện cố tình gây khó khăn cho doanh nghiệp để thu về những khoản tiền không chính thức. Doanh nghiệp được hỏi họ có phải gặp phải khó khăn gì không, có phải tặng quà/tiền không chính thức không và nếu có thì họ xử lý như thế nào. Hình 14 phản ánh tỷ lệ phần trăm doanh nghiệp có giao dịch với một cơ quan quản lý nhà nước và cho rằng cơ quan đó đang gây khó khăn cho họ, và tỷ lệ phần trăm doanh nghiệp nói rằng cơ quan đó là một trong ba cơ quan hay gây khó khăn cho doanh nghiệp nhiều nhất.

Hình 14. Các cơ quan hay gây khó khăn và ba cơ quan gây khó khăn nhiều nhất (tỷ lệ phần trăm doanh nghiệp)


Kết quả khảo sát cho thấy ít nhất 10% doanh nghiệp đã khẳng định họ bị gây khó khăn khi sử dụng các dịch vụ công do các cơ quan nhà nước cung cấp, thậm chí với một số dịch vụ, tỷ lệ này còn cao hơn. Hải quan, cảnh sát giao thông và cơ quan thuế đều bị ít nhất 30% số doanh nghiệp nêu tên như các cơ quan hay gây khó khăn. Khi được hỏi về ba cơ quan hay gây khó khăn nhất thì 58% chọn cơ quan thuế, các cơ quan quản lý chuyên ngành đứng thứ hai (23%), vị trí thứ ba và thứ tư thuộc về cảnh sát giao thông (21%) và tài nguyên môi trường (20%).

Hình 15. Tương quan giữa tỷ lệ cơ quan gây khó khăn và việc biếu quà/tiền


Khi cơ quan nhà nước gây khó khăn cho doanh nghiệp, điều đó không nhất thiết đồng nghĩa với tham nhũng, nhưng nó tạo cơ hội cho tham nhũng. Quả thực, như Hình 15 đã cho thấy, cơ quan nào có xu hướng hay gây khó khăn cho doanh nghiệp nhất thì nhìn chung đó cũng là cơ quan mà doanh nghiệp phải trả các chi phí không chính thức một cách thường xuyên nhất. Ðiều này có nghĩa cơ quan nhà nước nào hay chủ động gâykhó khăn cho doanh nghiệp thì cơ hội để tham nhũng sẽ tăng lên.

Các đối tượng khảo sát cũng được hỏi về trải nghiệm trực tiếp của họ trong việc đưa hối lộ (Hình 16). Tỷ lệ doanh nghiệp có tiến hành biếu quà hoặc trả tiền không chính thức khác nhau giữa các loại hình cơ quan quản lý mà doanh nghiệp phải tiếp xúc. Doanh
nghiệp nói rằng họ phải trả tiền không chính thức thường xuyên nhất khi giao dịch với cơ quan thuế (33%). Còn khi liên hệ với các cơ quan quản lý chuyên ngành, 20% số doanh nghiệp nói họ có phải chi tiền không chính thức. Ba ngành tiếp theo là ngân hàng (17%), cảnh sát giao thông (16%), và hải quan (16%)

Hình 16. Trả các khoản tiền không chính thức cho ai? Ai là người gợi ý?


Trong số các doanh nghiệp phải trả phí ngoài quy định, một tỷ lệ lớn các doanh nghiệp đã chủ động đưa quà biếu/tiền, số còn lại được yêu cầu khi sử dụng dịch vụ. Kết quả khảo sát cho thấy hơn 70% số trường hợp có trả phí ngoài quy định là do doanh nghiệp chủ động đề nghị, còn dưới 30% số trường hợp là được cán bộ, công chức yêu cầu. Trong số các ngành được khảo sát, quản lý thị trường đứng đầu trong danh sách các cơ quan đòi phí ngoài quy định, thứ hai là cảnh sát giao thông, sau đó đến công an kinh tế, quản lý tài nguyên và môi trường, và xây dựng. Tham nhũng không chỉ biểu hiện ở việc những cá nhân chịu trách nhiệm hoặc người cung cấp dịch vụ vòi vĩnh mà còn phần lớn do người sử dụng dịch vụ chủ động đề xuất.

Ngoài việc chi trả tiền/quà biếu ngoài quy định khi sử dụng dịch vụ, tham nhũng còn diễn ra dưới nhiều hình thức khác. Những chuyến viếng thăm không cần thiết, tặng tiền/quà biếu trong các dịp lễ, Tết, trả tiền cho các bữa tiệc hoặc vui chơi giải trí cũng là
những hình thức ẩn chứa tham nhũng.

Hình 17: phản ánh cách thức tham nhũng diễn ra, theo trải nghiệm của các doanh nghiệp, trong vòng 12 tháng qua.


Theo trả lời của các doanh nghiệp, xấp xỉ 10% số doanh nghiệp nói rằng họ phải tiếp đón các chuyến viếng thăm không chính thức từ các cơ quan và đối tượng liên quan. Cơ quan kế hoạch và đầu tư và thanh tra, kiểm tra là hai cơ quan đứng đầu trong số những cơ quan tiến hành quá nhiều các cuộc viếng thăm không chính thức trong 12 tháng qua. Chỉ chưa đầy 5% số doanh nghiệp được hỏi phải trả chi phí ngoài quy định cho tiệc tùng, giải trí của cơ quan cung cấp dịch vụ, và điều này diễn ra thường xuyên nhất với cơ quan thuế, cơ quan quản lý chuyên ngành, ngân hàng, thanh tra và kiểm tra. Cuối cùng, hình thức phổ biến nhất là tặng tiền/quà biếu trong các dịp lễ tết. Kiểu giao dịch này không nhất thiết diễn ra tại thời điểm cung cấp/sử dụng dịch vụ, vì thế nhiều người không coi đó là hành vi tham nhũng chính thức. Theo kết quả khảo sát, cơ quan thuế đứng đầu với 44% số doanh nghiệp được khảo sát đã áp dụng cách làm này, và ba ngành tiếp theo là cơ quan quản lý chuyên ngành, ngân hàng và cảnh sát khu vực.

2.1.2.3. Liệu tham nhũng có thực sự mang lại lợi ích gì không?

Phần phân tích trên đây cho thấy nhiều doanh nghiệp đơn phương chi trả các khoản tiền ngoài quy định để giải quyết nhanh công việc và tháo gỡ những khó khăn do các cơ quan nhà nước gây ra. Dường như khá nhiều doanh nghiệp coi đây là một chi phí cần thiết khi kinh doanh. Tuy vậy, liệu chiến lược này có thực sự mang lại lợi ích cho doanh nghiệp hay không lại là câu chuyện khác. Các doanh nghiệp được hỏi xem họ đánh giá như thế nào về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp khi so sánh với hai năm trước đây. Các doanh nghiệp có thể chọn một trong năm phương án trả lời, từ kém hơn nhiều cho đến tốt hơn nhiều so với trước. Nhìn chung, 51% số doanh nghiệp nói công việc làm ăn của họ tốt hơn, so với 35% nói tồi đi. Con số này cũng nhất quán với tình hình tăng trưởng chung của nền kinh tế Việt Nam.

Liệu doanh nghiệp đưa hối lộ có kinh doanh tốt hơn các doanh nghiệp không làm việc này hay không? Câu trả lời là "không". Tính trung bình, các doanh nghiệp có đưa hối lộ trong vòng 12 tháng qua trên thực tế tăng trưởng chậm hơn các doanh nghiệp không làm việc này (phần bên trái của Hình 18). Tác động này còn rõ nét hơn khi tìm hiểu cách thức các doanh nghiệp xử lý những tình huống khó khăn. Nhìn chung, những doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất là doanh nghiệp nói thường xuyên không đối phó với những khó khăn do các cơ quan nhà nước gây ra bằng cách đưa biếu quà/tiền cho cán bộ phụ trách (phần bên phải của Hình 18). Trái lại, doanh nghiệp nào nói họ thường xuyên áp dụng chiến thuật này thì xét trung bình kết quả kinh doanh lại không tốt lên, thậm chí còn tồi đi. (8)

Hình 18. Doanh nghiệp trả phí không chính thức thì kinh doanh kém hiệu quả


Kết quả doanh nghiệp tham gia hối lộ có mức tăng trưởng chậm thực sự có nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, nó cho thấy việc trả các khoản tiền không chính thức không phải là một chiến lược kinh doanh hiệu quả, mặc dù trên thực tế có nhiều doanh nghiệp tin như vậy. Giúp doanh nghiệp hiểu được các lựa chọn về pháp lý của họ và những chiến lược khác để giải quyết khó khăn có thể giúp hạn chế động cơ của bên đưa hối lộ. Thứ hai, nó cũng chứng tỏ là nói chung, văn hóa tham nhũng trong đó các doanh nghiệp phải thường xuyên sử dụng các khoản chi không chính thức đang cản trở sự tăng trưởng của cả khu vực doanh nghiệp. Quả thực, có thể có một cuộc đua tụt hạng trong đó các doanh nghiệp cố gắng cải thiện vị thế của mình, song vô tình họ đang cùng nhau làm tình hình xấu thêm vì các cán bộ sẽ có thói quen nhận hối lộ mới giải quyết công việc. Khi xét kết quả tăng trưởng trung bình của các tỉnh/thành phố, những địa phương nào có nhiều doanh nghiệp đưa hối lộ thì nhìn chung cũng là những địa phương mà doanh nghiệp đánh giá rằng họ đang tăng trưởng chậm hơn (Hình 19).

Hình 19. Tỉnh/thành phố có hiện tượng đưa hối lộ nhiều hơn thì doanh nghiệp cũng kinh doanh kém hơn


2.1.2.4. Người dân trả chi phí ngoài quy định cho ai?

Người dân cũng được hỏi về trải nghiệm của họ với việc chi trả phí ngoài quy định. Ðầu tiên, họ được hỏi xem có sử dụng một vài dịch vụ công hay không, và nếu có, liệu họ có phải trả phí ngoài quy định hay không. Câu hỏi tiếp theo là họ đánh giá số tiền mà họ phải trả thêm lớn đến mức nào và họ có tự nguyện trả hay không.

Nhìn chung, người dân cho biết có tham gia nhiều giao dịch với các cơ quan hoặc tổ chức của nhà nước. Gần 3/4 có sử dụng dịch vụ y tế và hơn 1/3 có làm việc với cơ quan thuế để kê khai tính thuế hoặc làm đơn xin vay vốn ở ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng (Hình 20). Ở phía bên kia của bức tranh, rất ít người dân được khảo sát nói có giao dịch với hệ thống tòa án.

Hình 20. Phần trăm người dân sử dụng các dịch vụ khác nhau trong 12 tháng trước đó


Ở phần trước, chúng ta thấy rằng những người dân tự đánh giá mình thuộc nhóm nghèo có xu hướng thừa nhận tham nhũng ở cấp địa phương nhiều hơn, trong khi những người thuộc nhóm giàu lại có xu hướng ghi nhận tham nhũng ở cấp trung ương và cấp tỉnh/thành phố. Một lý do dẫn đến nhận thức khác nhau này là dịch vụ mà người nghèo sử dụng chủ yếu được cung cấp ở cấp địa phương, trong khi những người dân giàu có lại có xu hướng sử dụng nhiều những dịch vụ do cấp cao hơn cung ứng. Quả thực, cách lý giải này có vẻ phù hợp. Trong số 16 dịch vụ mà người dân được yêu cầu nêu rõ trải nghiệm của họ thì mỗi cấp có hai loại dịch vụ rõ ràng được cung ứng ở các cấp tỉnh/thành phố, quận/huyện và phường/xã. Như đã thấy rõ trong Hình 21, người dân thuộc tất cả các nhóm thu nhập đều sử dụng các dịch vụ ở cấp phường/xã, nhưng người giàu lại sử dụng nhiều hơn các dịch vụ ở cấp quận/huyện và tỉnh/thành phố.

Hình 21. Sử dụng dịch vụ, theo nhóm thu nhập (%)


Kết quả khảo sát khẳng định khi sử dụng dịch vụ công, người dân phải trả phí ngoài quy định (Hình 22).

Trong số những người có sử dụng dịch vụ, tỷ lệ người dân phải trả phí ngoài quy định cho cảnh sát giao thông là cao nhất, chiếm khoảng 47% số người trả lời. Hơn 30% nói họ phải trả chi phí ngoài quy định khi xin học cho con cái. Khi xin việc trong các cơ quan nhà nước, 29% nói họ phải chi trả ngoài quy định. Dịch vụ y tế và xin giấy phép xây dựng, sửa chữa nhà cửa có tỷ lệ khoảng 25%. Một số người sử dụng dịch vụ nói họ vẫn phải trả phí ngoài quy định ngay cả với những loại dịch vụ mà thông thường chúng ta không nghĩ điều này có thể xảy ra, chẳng hạn như khi người nghèo sử dụng "bảo hiểm hay phúc lợi xã hội" và "đăng ký khai sinh" cho trẻ sơ sinh.

Vì nhiều khoản chi trả ngoài quy định có thể có giá trị nhỏ nên những người phải trả tiền được hỏi xem họ coi khoản tiền đó là "lớn" hay "nhỏ" (Hình 23). Trong số những người phải trả phí ngoài quy định, các khoản tiền lớn ngoài quy định phải trả khi xin việc trong cơ quan nhà nước hay xin cấp sổ đỏ. Khi đến gặp hoặc giao dịch với một cơ quan nhà nước để xin việc, 12% nói họ phải trả khoản tiền ngoài quy định "lớn". Các ngành khác có xác suất phải trả những khoản tiền lớn ngoài quy định là giáo dục và trường học, cảnh sát giao thông và xin cấp sổ đỏ nhà đất (Tỷ lệ phần trăm này tính trong số những người có giao dịch với cơ quan nhà nước).

Hình 23. Xác suất phải đưa hối lộ lớn khi sử dụng các dịch vụ hoặc giao dịch với cơ quan nhà nước, trong số những người có giao dịch (%)


Số liệu trong Hình 22 và Hình 23 phản ánh xác suất phải đưa hối lộ hoặc trả một khoản tiền hối lộ lớn khi giao dịch với các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, cách so sánh này không cho biết mức độ chi trả các khoản ngoài quy định trong phạm vi cả nước vì một số dịch vụ, như dịch vụ y tế, được đông đảo công chúng sử dụng trong khi một số dịch vụ khác, như hệ thống tòa án chẳng hạn, lại có rất ít người sử dụng. Trong Hình 24, chúng ta thấy tỷ lệ trong toàn bộ mẫu khảo sát người dân cho biết họ có phải chi những khoản ngoài quy định cho từng cơ quan. Vì thế, mặc dù xác suất phải trả phí ngoài quy định cho cảnh sát giao thông và giáo dục là lớn nhất, nhưng tổng số những lần phải trả phí ngoài quy định trong ngành y tế ở các tỉnh trong diện khảo sát lại là cao nhất vì có một tỷ lệ lớn người dân đã từng phải đến các cơ sở y tế.

Hình 24. Tỷ lệ trong toàn bộ dân số phải đưa hối lộ, theo ý kiến của người dân (%)


2.1.2.5. Vì sao người dân phải trả phí ngoài quy định?

Người dân được hỏi vì sao họ lại chấp nhận trả tiền ngoài quy định. Họ cũng được hỏi về phản ứng khi gặp tình huống gợi ý cần phải chi trả ngoài quy định. Cụ thể, những người dân có giao dịch với cơ quan nhà nước hoặc cán bộ trong 12 tháng qua được hỏi
lần gần đây nhất khi được gợi ý tặng quà hoặc chi tiền ngoài quy định thì họ xử lý như thế nào. Kết quả, được thể hiện trong phần bên trái của Hình 25, cho thấy khoảng một nửa số người được hỏi nói họ có trả tiền ngoài quy định. Chỉ có 3% số người được hỏi
nói họ báo với cơ quan có thẩm quyền. Trong số những người có trả tiền ngoài quy định, được thể hiện ở phần bên phải của Hình 25, dường như việc chi trả này có hiệu quả: 58% nói công việc được giải quyết triệt để và 24% nói được giải quyết một phần.

Hình 25. Phản ứng và kết quả lần được gợi ý chi trả khoản tiền ngoài quy định gần đây nhất (tỷ lệ phần trăm người dân trả lời)


Cơ chế gợi ý đưa tiền ngoài quy định cũng là vấn đề đáng quan tâm. Khi những người dân phải chi tiền ngoài quy định trong vòng 12 tháng qua được hỏi cán bộ thường gợi ý đưa tiền ngoài quy định hoặc quà biếu như thế nào thì có khoảng 18% cho biết cán
bộ gợi ý trực tiếp và 17% nói họ qua "cầu trung gian" (Hình 26). Phương án được trả lời nhiều nhất là cán bộ chủ ý gây khó khăn hoặc trì hoãn giải quyết công việc, với 29% số người dân có đưa tiền ngoài quy định khẳng định điều này.

Hình 26. Cán bộ gợi ý hoặc yêu cầu đưa tiền ngoài quy định hoặc quà biếu như thế nào? (tỷ lệ phần trăm số người khẳng định có chi trả ngoài quy định trong 12 tháng qua)


Trải nghiệm nói trên không đồng nhất trong tất cả các loại dịch vụ hoặc các cơ quan. Người dân nói có phải trả thêm chi phí dưới dạng tiền mặt, quà biếu hoặc các ưu đãi khác, ngoài mức phí chính thức, thường nói rằng họ làm điều đó một cách tự nguyện (Hình 27). Ðiều này đặc biệt đúng với dịch vụ. Có rất nhiều người trả tiền ngoài quy định cho việc sửa chữa, lắp đặt đường nước (88%), dịch vụ cơ quan thuế hay (83%) dịch vụ y tế (76%) đều nói họ trả tiền tự nguyện. Trái lại, 50% số người trả tiền ngoài quy định để được cấp sổ đỏ nhà đất và 41% số người trả tiền cho việc xin giấy phép sửa chữa nhà cửa hay xin việc ở các cơ quan nhà nước đều nói các khoản tiền ngoài quy định đó được gợi ý chứ không phải tự nguyện.

Hình 27. Khi người dân phải trả tiền ngoài quy định hoặc biếu quà, đó là tự nguyện hay do bị gợi ý? (tỷ lệ phần trăm số người có trả tiền ngoài quy định hoặc biếu quà trong 12 tháng qua) .
[caption id="attachment_4931" align="aligncenter" width="550"] Ghi chú: Một số dịch vụ có ít hơn 20 quan sát thì không được đưa vào làm cơ sở ước lượng.[/caption]

Nhìn chung, 21% số người dân nói ít nhất họ đã tự nguyện trả tiền ngoài quy định một lần. Có thể có nhiều lý do khiến người dân chọn cách trả tiền ngoài quy định cho dù không trực tiếp bị gợi ý đưa tiền. Phiếu khảo sát người dân đã hỏi những người đưa tiền
vì sao họ tự nguyện làm như vậy (Hình 28). Trong số những người ít nhất có một lần tự nguyện đưa tiền ngoài quy định, nhiều người cho rằng vì người khác cũng làm thế (41%) hoặc thà mất tiền còn hơn phải đương đầu với các thủ tục rắc rối (32%). Chỉ có 17% nói rằng "không đưa tiền thì không xong việc".

Hình 28. Vì sao người dân trả tiền ngoài quy định, ngay cả khi không bị yêu cầu? (tỷ lệ phần trăm số người nói đã có lần "tự nguyện" đưa tiền ngoài quy định) Ghi chú: Người trả lời có thể chọn nhiều hơn một phương án trả lời


2.1.2.6. CBCC quan sát thấy những hiện tượng tham nhũng nào?

Khảo sát người dân và doanh nghiệp giúp minh họa các dạng tham nhũng trong sự tương tác giữa cơ quan nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, như đã nêu trong phần giới thiệu, một số dạng tham nhũng lại không nằm trong sự tương tác đó. CBCC trong mẫu khảo sát đã được hỏi liệu họ có biết rõ trường hợp nào trong 12 hành vi tham nhũng trong 12 tháng qua, và kết quả được thể hiện trong Hình 29. Bốn hành vi được hơn 20% CBCC biết rõ bao gồm: sử dụng phương tiện của cơ quan phục vụ nhu cầu riêng của cá nhân và gia đình (26%); nhận tiền hoặc quà biếu để giải quyết công việc có lợi cho người đưa tiền/quà (25%); cố tình gây khó khăn khi giải quyết công việc để buộc đối tượng phải hối lộ (22%); và mời người có chức quyền đi du lịch, ăn uống, vui chơi để vụ lợi (20%). Hai hành vi tiếp theo được nhiều người đề cập đến nhất là đề bạt những người không có năng lực để vụ lợi (17%) và gọi điện, viết thư tay can thiệp để mưu lợi cho người thân (16%). Cần lưu ý là nhiều hành vi thể hiện trong Hình 29 không nằm trong sự tương tác giữa CBCC nhà nước với công chúng mà chúng hoàn toàn là vấn đề nội bộ của nền hành chính công.

Ðiều này chứng tỏ còn nhiều việc phải làm trong lĩnh vực cải cách hành chính công, tăng cường quản lý nguồn nhân lực và quản lý tài sản công.

Hình 29. Hành vi mà CBCC đã gặp trong công việc 12 tháng qua (tỷ lệ phần trăm CBCC)


2.1.3. Các nguồn thông tin về tham nhũng.

Có rất nhiều nguồn thông tin giúp hình thành quan điểm ý kiến của đối tượng phỏng vấn về mức độ tham nhũng trong các ngành khác nhau. Tivi, đài, báo là những nguồn thông tin phổ biến nhất với 93% số người được hỏi sử dụng kênh này. Dư luận nhân dân là nguồn thông tin phổ biến thứ hai đối với cả ba nhóm đối tượng phỏng vấn. Trái lại, báo cáo và đánh giá của các cơ quan nhà nước hay địa phương nơi các đối tượng trả lời sinh sống dường như lại cung cấp ít thông tin nhất về tham nhũng. Chỉ có 5% số người dân được phỏng vấn, 10% doanh nghiệp và 16% CBCC biết được tình hình tham nhũng qua kênh thông tin này.

Trong khi gần 2/3 số doanh nghiệp và CBCC coi internet là một nguồn thông tin, thì chỉ có 18% người dân có ý kiến tương tự. Ðiều này cho thấy mức độ phổ cập internet trong nhân dân còn hạn chế. Và tuy có đến gần một nửa số doanh nghiệp đã từng tự chứng kiến các hành vi tham nhũng, chỉ có 29% người dân và 31% CBCC là đã có cơ hội tương tự.

Hình 30. Nguồn thông tin về tham nhũng


2.1.4. Thách thức mới nổi lên: Nhóm lợi ích

Các thảo luận và trao đổi trước đây mới chỉ đề cập đến các hình thức khác nhau của tham nhũng liên quan đến việc thực hiện các chính sách và pháp luật. Tuy nhiên, kinh nghiệm từ các nước khác đang chuyển đổi sang kinh tế thị trường có thể giúp chúng ta dự đoán và nhận diện sự biến đổi của các hình thức tham nhũng. Khi vai trò của nhà nước chuyển mạnh hơn sang việc xác lập các quy tắc cạnh tranh và trao đổi chứ không còn chỉ đạo trực tiếp nền kinh tế nữa, thì doanh nghiệp có xu hướng ngày càng tìm cách tác động để tạo ra những lợi thế riêng cho bản thân họ. Trên thực tế, họ tự tổ chức thành các nhóm lợi ích cho mục đích này. Ðồng thời, doanh nghiệp cũng có thể tự tổ chức thành các nhóm lợi ích vì mục tiêu tích cực. Cá nhân từng doanh nghiệp có thể có rất ít động cơ để chịu chi phí truyền tải các vấn đề của họ với các nhà hoạch định chính sách việc đó mang lại mà lợi ích cho nhiều doanh nghiệp khác. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp tổ chức lại với nhau thành các hiệp hội kinh doanh để có thể cùng nhau nói lên những vấn đề quan tâm của họ thì sẽ hiệu quả hơn. Theo cách này, việc hình thành các nhóm lợi ích có thể đóng vai trò tích cực trong việc thúc đẩy sự tương tác giữa cộng đồng doanh nghiệp với các nhà hoạch định chính sách.

Cuộc khảo sát này tìm hiểu xem doanh nghiệp coi nhóm lợi ích như thế nào, quan điểm của họ về xu hướng tác động tích cực và tiêu cực của các nhóm lợi ích (Hình 31) Nhìn tổng thể, các câu hỏi về nhóm lợi ích có tỷ lệ câu trả lời "Không biết" lớn hơn nhiều so với đa phần các câu hỏi khác. Ðiều này chứng tỏ khái niệm "nhóm lợi ích" còn khá mới mẻ ở Việt Nam.

Hình 31. Quan điểm của doanh nghiệp về nhóm lợi ích


Doanh nghiệp ở Việt Nam nêu cả khía cạnh tích cực và tiêu cực của nhóm lợi ích. Về mặt tích cực, khoảng 37% cho rằng nhóm lợi ích trong lĩnh vực kinh doanh của họ giúp đưa những khó khăn trong quá trình kinh doanh đến được với các nhà hoạch định chính sách, trong khi số không đồng ý chỉ chiếm 15%. Ðồng thời, tỷ lệ doanh nghiệp đồng ý rằng nhóm lợi ích trong lĩnh vực kinh doanh của họ sử dụng hối lộ để đạt mục đích có ít hơn một chút so với tỷ lệ doanh nghiệp không đồng ý. Về mặt tiêu cực, việc chỉ có 28% số doanh nghiệp không đồng ý với nhận định trên cho thấy có một số điểm cần lưu tâm.

Thậm chí đáng lo ngại hơn nữa, khi được hỏi liệu doanh nghiệp có sử dụng các mối quan hệ với quan chức để trục lợi không thì có đến 40% doanh nghiệp đồng ý và chỉ có 17% doanh nghiệp phản đối. Cuối cùng, khi được hỏi liệu các nhóm lợi ích ngày càng có ảnh hưởng mạnh hơn hay không thì có đến 50% số doanh nghiệp đồng ý và chỉ có 10% doanh nghiệp không đồng ý mà thôi. Phân tích câu trả lời của các loại doanh nghiệp sẽ cho ta những hiểu biết sâu sắc về bối cảnh đang thay đổi liên quan đến nhóm lợi ích ở Việt Nam. Nói chung, các doanh nghiệp lớn có xu hướng coi nhóm lợi ích đang trở nên chủ động hơn và các doanh nghiệp lớn cũng có xu hướng nhấn mạnh nhiều hơn đến các khía cạnh tích cực của nhóm lợi ích.

Doanh nghiệp có vốn nhà nước có xu hướng cho rằng các nhóm lợi ích đang trở nên chủ động hơn và đề cập đến cả khía cạnh tích cực và tiêu cực của việc hình thành chúng.

Tương tự như vậy, so với các doanh nghiệp không tham gia hiệp hội, thành viên các hiệp hội doanh nghiệp có vẻ đồng ý nhiều hơn với nhận định rằng nhóm lợi ích đang trở nên chủ động hơn và chúng giúp thúc đẩy sự trao đổi tích cực, cũng như họ sử dụng quan hệ với quan chức để tranh thủ lợi thế. Vì nhiều yếu tố này có liên quan với nhau nên cần sử dụng những phân tích tinh xảo hơn để nhận diện yếu tố nào có quan hệ chặt chẽ nhất với các đánh giá khác nhau về nhóm lợi ích. Mọi yếu tố khác như nhau, doanh nghiệp có nhiều đối thủ cạnh tranh và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng có xu hướng cho rằng nhóm lợi ích trong lĩnh vực kinh doanh của họ đang sử dụng hối lộ để đạt mục đích nhiều hơn các doanh nghiệp khác.

Doanh nghiệp cũng được đề nghị nhận diện các cơ quan mà nhóm lợi ích thường cố gắng gây ảnh hưởng nhất. Xét riêng mẫu gồm các doanh nghiệp nói rằng nhóm lợi ích trong mạng lưới doanh nghiệp của họ đang sử dụng quan hệ hoặc sử dụng hối lộ để đạt mục đích của mình nhưng không hỗ trợ giải quyết những vướng mắc của doanh nghiệp, các câu trả lời dường như đánh giá tiêu cực nhất là lãnh đạo UBND và tích cực nhất là đại biểu Quốc hội (Hình 32). Trên thực tế, hình thái này cũng xuất hiện khi xét riêng mẫu các doanh nghiệp chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh tích cực, tức là nhóm lợi ích giúp tăng cường trao đổi, nhưng không dùng quan hệ hoặc hối lộ để đạt mục đích. Việc các nhóm lợi ích hướng nhiều nhất tới lãnh đạo UBND không nhất thiết phản ánh hiện tượng tham nhũng mà chính xác hơn, nó phản ánh mức độ quyền lực mà họ có liên quan đến các vấn đề có vai trò quan trọng đối với khả năng sinh lợi của doanh nghiệp.

Hình 32. Nhóm lợi ích gây ảnh hưởng với ai vì mục đích tiêu cực? (trong số các doanh nghiệp chỉ thừa nhận các khía cạnh tiêu cực của nhóm lợi ích -- sử dụng hối lộ hoặc quan hệ chứ không giúp truyền tải các khó khăn )


Hình 33. Nhóm lợi ích gây ảnh hưởng với ai vì mục đích tích cực? (trong số các doanh nghiệp chỉ thừa nhận khía cạnh tích cực của nhóm lợi ích -- giúp truyền tải các khó khăn, nhưng không sử dụng quan hệ hoặc hối lộ)


2.2. Hiệu quả của các biện pháp phòng chống tham nhũng.

Mục trước đã trình bày tình trạng tham nhũng ở Việt Nam sau sáu năm thực hiện Luật PCTN. Mục này chú trọng vào công tác PCTN. Những giải pháp được nêu trong Luật PCTN 2005 có tác dụng như thế nào? Những giải pháp nào đã được thực thi và những giải pháp bổ sung nào được người dân, doanh nghiệp và CBCC Việt Nam ủng hộ để đưa cuộc đấu tranh chống tham nhũng lên tầm cao mới?

2.2.1. Tiến triển và thách thức trong việc thực hiện phòng chống tham nhũng.

Trong cuộc khảo sát nhằm tìm hiểu những tiến bộ đã đạt được trong các biện pháp PCTN trong thập kỷ vừa qua, CBCC được hỏi hàng loạt câu hỏi liên quan đến hiểu biết và thái độ của họ về vấn đề PCTN, hệ thống luật pháp và tổ chức PCTN. Mục này trình bày các kết quả đó. Khoảng 85% CBCC được phỏng vấn tin rằng nhận thức của CBCC về các vấn đề PCTN đã tăng lên (Hình 34). Tuy nhiên, 64% cho rằng một số CBCC sẵn sàng tiếp tay cho đối tượng tham nhũng và 86% cho rằng tâm lý e ngại khi đấu tranh chống tham nhũng vẫn còn phổ biến trong CBCC. Vì thế, mặc dù nhận thức về vấn đề tham nhũng đã được cải thiện nhưng mức độ sẵn sàng đấu tranh chống tham nhũng vẫn còn chưa rõ ràng trong nhiều CBCC.

Hình 34. Kiến thức và thái độ của CBCC về các vấn đề phòng chống tham nhũng


CBCC được hỏi về quan điểm của họ liên quan đến pháp luật và hiệu lực thực thi pháp luật về PCTN. Ða số tin rằng pháp luật về cơ bản đã đầy đủ (62%). Tuy nhiên, CBCC cũng bày tỏ sự quan ngại của họ về chất lượng của pháp luật PCTN, với khoảng 78% CBCC tin rằng các quy định pháp luật quá chung chung, chỉ mang tính hình thức và nhiều nội dung đã lạc hậu, chậm được điều chỉnh, sửa đổi. CBCC được đề nghị đưa ra nhận định của họ về hiệu quả của 9 biện pháp PCTN trong cơ quan, đơn vị của họ. Tuyệt đại bộ phận CBCC đồng ý rằng công khai, minh bạch (90%) và xây dựng, thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn (89%) là các biện pháp hiệu quả. Cải cách hành chính và xây dựng, thực hiện các quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp đứng ở vị trí tiếp theo, với các tỷ lệ đồng ý lần lượt là 86% và 83%. Nhỉnh hơn một nửa số CBCC tin vào hiệu quả của các biện pháp kê khai thu nhập và tài sản hiện nay. Chỉ có 24% CBCC nghĩ rằng quy định nộp lại quà biếu của CBCC là có hiệu quả.

So sánh giữa CBCC cấp địa phương (phường/xã, quận/huyện và tỉnh/thành phố) và trung ương cho thấy CBCC các cơ quan trung ương ít lạc quan hơn CBCC các cơ quan địa phương khi đánh giá về hiệu quả thực hiện 7 trên 9 biện pháp nêu trên. Hai nhóm cán bộ này đánh giá giống nhau về hiệu quả của hai biện pháp đầu (công khai minh bạch và xây dựng, thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn).

Hình 35. Ðánh giá của CBCC trung ương và địa phương về hiệu quả của các biện pháp phòng chống tham nhũng


CBCC cũng được hỏi ý kiến về hệ thống phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng hiện nay. 92% CBCC đồng ý rằng ít trường hợp tham nhũng bị phát hiện hơn chỉ có nghĩa là tham nhũng ngày càng trở nên tinh vi và khó phát hiện hơn mà thôi. CBCC tỏ ra hoài nghi về hiệu lực thực hiện: 61% đồng ý rằng nếu một địa phương không truy tố được trường hợp tham nhũng nào thì là do địa phương đó chưa kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, và 75% cho rằng khả năng tự phát hiện tham nhũng trong các cơ quan, đơn vị nhà nước còn yếu.

Hình 36. Nhận định của CBCC về việc phát hiện, xử lý tham nhũng hiện nay


CBCC tương đối thẳng thắn về việc xử lý các trường hợp tham nhũng. Thí dụ, 91% cho rằng thiếu xử lý nghiêm và kịp thời các vụ việc tham nhũng nghiêm trọng đang gây ra tâm lý hoài nghi trong công chúng. Tiếp nữa, 89% tin rằng cơ chế bảo vệ người tố cáo tham nhũng còn yếu kém đã khiến người dân e ngại khi báo cáo các trường hợp tham nhũng. Ðối tượng trả lời cũng thể hiện mong muốn có các hình thức xử phạt khắt khe hơn : 81% CBCC tin rằng nhiều trường hợp đáng lẽ phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì trên thực tế chỉ bị xử lý bằng các biện pháp hành chính, kinh tế, và 85% tin rằng việc thu hồi tài sản tham nhũng và yêu cầu bồi thường thiệt hại cho nạn nhân của tham nhũng chưa tích cực và chưa hiệu quả. Ở những nơi thực hiện được các biện pháp cứng rắn hơn thì CBCC cũng khẳng định sẽ có tác dụng : 69% CBCC tin rằng việc xử lý các vụ việc tham nhũng đã có tác dụng tích cực trong việc răn đe và PCTN. Tuy nhiên, rõ ràng ít có sự tin tưởng rằng người đứng đầu các cơ quan, đơn vị kiên quyết chống tham nhũng : 69% CBCC đồng ý rằng một số người đứng đầu cơ quan, đơn vị có xu hướng xử lý nhẹ các vụ việc tham nhũng trong cơ quan để giữ uy tín cho cơ quan và bản thân mình.

Mặc dù trong thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã có những nỗ lực bền bỉ đấu tranh chống tham nhũng nhưng tham nhũng vẫn còn phổ biến trong phạm vi cả nước. Khảo sát này tìm hiểu vì sao các biện pháp PCTN không có hiệu quả như mong muốn. Tất cả ba nhóm đối tượng phỏng vấn đều được hỏi quan điểm về các nguyên nhân hạn chế công tác PCTN. Tỷ lệ phần trăm các đối tượng trả lời trong mỗi nhóm đồng ý hoặc rất đồng ý với mỗi yếu tố được phản ánh trong Hình 37. Cuộc khảo sát cho thấy hơn 90% số người được hỏi tin rằng đối tượng tham nhũng chưa phải chịu những hình phạt thích đáng. 80% đối tượng trả lời trong cả ba nhóm đều cho rằng chưa có sự chú trọng làm trong sạch đội ngũ cán bộ, và 76-82% cho rằng các biện pháp PCTN còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm. 75% CBCC và 85% hai nhóm đối tượng còn lại đồng ý là người có thẩm quyền chưa thực sự quyết tâm.

Người dân gay gắt hơn khi nói đến thái độ và năng lực của CBCC so với hai nhóm đối tượng còn lại: 80% người dân tin rằng có sự tiếp tay giữa công chức và đối tượng tham nhũng, 87% cho rằng một số cấp trên bao che cho cấp dưới có hành vi tham nhũng và 76% nghĩ rằng CBCC thiếu năng lực. Các con số này đều thấp hơn 75% đối với mẫu CBCC và doanh nghiệp.

Hình 37. Cảm nhận về các yếu tố hạn chế kết quả đấu tranh.


Trong tổ chức các cơ quan PCTN của Việt Nam cho tới thời điểm thực hiện cuộc khảo sát, Chủ tịch UBND tỉnh/thành phố cũng là người đứng đầu của BCÐ PCTN tỉnh/thành phố. Cuộc khảo sát đã hỏi các đối tượng phỏng vấn xem họ có thấy cách tổ chức như vậy là phù hợp hay không. Trên thực tế, 52% doanh nghiệp, 59% người dân và 62% CBCC cho rằng cách tổ chức như vậy là không phù hợp. Mặc dù các tỷ lệ này đều thấp hơn so với các yếu tố khác, nhưng vẫn cao hơn 50% và cách tổ chức này nên được xem xét lại trong chiến lược PCTN trong tương lai.

CBCC cũng được hỏi họ tin tưởng như thế nào về mức độ hiệu quả trong phát hiện tham nhũng của các cơ quan chức năng (Hình 38). Hầu hết CBCC tin tưởng vào các cơ quan chức năng. Mức độ tin tưởng cao nhất là đối với cơ quan kiểm tra của Ðảng, tiếp đến là cơ quan thông tấn, báo chí. Ðáng lưu ý là mức độ không tin tưởng vào hiệu quả phát hiện tham nhũng của bất cứ cơ quan nào cũng đều rất thấp.

Hình 38. Mức độ tin tưởng của CBCC vào khả năng phát hiện tham nhũng


2.2.2. Nguyên nhân gây ra tham nhũng.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tham nhũng. Tất cả các nhóm đối tượng đều được yêu cầu chia sẻ quan điểm của họ về 16 nguyên nhân gây ra tham nhũng thường được đề cập đến (Hình 39). Những nguyên nhân gây ra tham nhũng này đã được đề cập đến trong nhiều báo cáo của chính phủ hoặc được bình luận trên các phương tiện truyền thông. Nói chung, hơn 1/2 cho đến 2/3 số người được hỏi đều đồng ý hoặc rất đồng ý với những nguyên nhân này, trừ một quan niệm chung rằng "ai có cơ hội tham nhũng mà không tham nhũng là dại". Chưa đến 1/3 số CBCC và ít hơn 1/2 số nhân dân và lãnh đạo doanh nghiệp đồng ý với câu phát biểu đó. "Chưa xử lý nghiêm" đối với đối tượng tham nhũng là nguyên nhân mà cả ba nhóm đối tượng phỏng vấn đều nhất trí nhiều nhất.

Lãnh đạo doanh nghiệp và người dân có xu hướng chỉ trích các thói quen nhiều hơn CBCC. Liên quan đến các nguyên nhân "CBCC đã quen nhận quà biếu và hối lộ từ người dân""người dân có thói quen đưa hối lộ cho CBCC để giải quyết được việc", CBCC có xu hướng ít đồng ý hơn so với người dân và doanh nghiệp. Trong khi chỉ có 57% CBCC đồng ý và hoàn toàn đồng ý với nhận định "Cán bộ nhận tiền, quà biếu liên quan đến công vụ đã trở thành thói quen", thì có đến 83% doanh nghiệp và 76% người dân đồng ý hoặc hoàn toàn đồng ý với nhận định đó.

Khi bàn về "tiền lương thấp" là một nguyên nhân gây ra tham nhũng, 79% CBCC đồng ý hoặc hoàn toàn đồng ý đây là một nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tham nhũng. Tuy nhiên, người dân lại ít tin điều này hơn, vì chỉ có 58% đồng ý với nguyên nhân này. Người dân ít đồng tình với việc lấy tiền lương thấp là một lý do để tham nhũng. Ðiều thú vị đáng lưu ý là có nhiều CBCC hơn người dân và doanh nghiệp đồng ý rằng "quy định về quyền hạn, trách nhiệm của quan chức cấp cao chưa chặt chẽ""còn nhiều kẽ hở trong các quy định" là những nguyên nhân gây ra tham nhũng.

Hình 39. Ý kiến về nguyên nhân dẫn đến tham nhũng (tỷ lệ phần trăm đồng ý và rất đồng ý)


2.2.3. Phản ứng với các tình huống có nguy cơ tham nhũng.

Mục tiêu chính của nền tảng PCTN là xây dựng một hệ thống trong đó mọi người sẵn sàng và có thể cảnh báo với các nhà chức trách khi phát hiện có tham nhũng. Ðể một hệ thống như vậy vận hành được, cần có sự hiểu biết rộng rãi về các hậu quả tai hại của tham nhũng và sự tin tưởng rằng những người cung cấp thông tin về tham nhũng cho nhà chức trách sẽ không bị phản ứng tiêu cực. Cuộc khảo sát xã hội học về PCTN này cố gắng nhận diện những trở ngại đang hạn chế sự vận hành hiệu quả của hệ thống khiếu nại, tố cáo.

Nhìn chung, một hệ thống trong đó CBCC có thể tố cáo tham nhũng dường như đang nhận được sự hậu thuẫn mạnh mẽ. Khi được hỏi cá nhân sẽ làm gì nếu họ biết rõ một hành vi tham nhũng tại cơ quan, có đến 79% CBCC nói họ chắc chắn sẽ báo với người có thẩm quyền. Chỉ có 4% nói rằng họ sẽ không tố cáo.

Ðối với người dân, khoảng 42,9% nói nhiều khả năng họ sẽ báo với người có thẩm quyền nếu họ biết rõ một CBCC tham nhũng. Một tỷ lệ tương tự người dân nói họ sẽ ít khả năng làm như vậy. Trong khi 65,7% người dân cho rằng họ sẽ không thông báo với báo chí, đài phát thanh và truyền hình về một CBCC tham nhũng thì có đến 63,1% ngườidân nói họ sẽ tâm sự với bạn bè, người quen và hàng xóm và 58,7% cho rằng họ sẽ giữ im lặng, không nói cho ai biết (Hình 40).

Hình 40. Phản ứng của người dân trước một công chức tham nhũng


Những phát hiện này cho thấy mặc dù các cơ quan truyền thông được xem như một lực lượng hữu hiệu để phòng ngừa tham nhũng, như đã trình bày trong Mục 2.2.7 của Báo cáo này, nhưng cần làm nhiều hơn nữa để báo chí thực sự chiếm được lòng tin của người dân và để người dân cùng với các cơ quan truyền thông có thể liên minh với nhau trong những nỗ lực PCTN. Kết quả cũng chứng tỏ một khi người dân biết rõ một quan chức tham nhũng, hầu hết bạn bè, người thân và cộng đồng cũng sẽ biết điều đó. Vì thế, công chúng có xu hướng đều biết rõ về tham nhũng, có nghĩa là việc tính đến vai trò của người dân trong nỗ lực PCTN sẽ rất quan trọng.

Tại sao người dân, CBCC và doanh nghiệp lại dè chừng khi tố cáo tham nhũng? Cả ba nhóm đối tượng đều được đề nghị đưa ra quan điểm của họ về nguyên nhân họ không tố cáo tham nhũng. Người dân có xu hướng cho rằng đối tượng tham nhũng có quan hệ với người có thẩm quyền, với gần hai phần ba số người dân đồng ý hoặc rất đồng ý với lý do đó. Trong khi đó, con số này lần lượt là 55% và 49% đối với doanh nghiệp và CBCC.

Mặc dù hơn 50% số người được phỏng vấn sợ bị trả thù hoặc không tin tưởng vào người có thẩm quyền, thì chỉ có gần 20% người dân và doanh nghiệp và 30% CBCC đồng ý hoặc rất đồng ý với vấn đề họ không tố cáo tham nhũng là do làm như thế cũng không được khen thưởng. Thiếu cơ chế khen thưởng rõ ràng không phải là một lý do chính khiến người dân, CBCC và doanh nghiệp không muốn tố cáo tham nhũng. Các nguyên nhân khác như thiếu tin tưởng vào người có thẩm quyền hay sợ bị trù dập mới là các yếu tố cản trở mạnh hơn.

Hình 41. Lý do không tố cáo tham nhũng (tỷ lệ phần trăm đồng ý hoặc rất đồng ý)


2.2.4. Doanh nghiệp tổ chức các hoạt động phòng chống tham nhũng của họ như thế nào?

Chúng ta đã thấy trong Mục 2.1.2.2 rằng các doanh nghiệp thường nói họ chấp nhận chi tiền ngoài quy định là để giải quyết công việc nhanh chóng. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp có vai trò chủ động hơn trong việc cố gắng giảm bớt tham nhũng. Doanh nghiệp được hỏi họ có thực hiện bất kỳ biện pháp PCTN nào trong vòng 12 tháng qua hay không. 52% số doanh nghiệp đã thực hiện một số biện pháp PCTN trong 12 tháng qua, trong khi có 43% doanh nghiệp chưa làm gì.

Trong số các doanh nghiệp đã thực hiện các biện pháp PCTN, 74% nói doanh nghiệp có ban hành quy tắc ứng xử, 50% nói doanh nghiệp có phát động chiến dịch "nói không với tham nhũng" và 37% doanh nghiệp có tổ chức các sự kiện nhằm nâng cao kiến thức về PCTN. Cả ba biện pháp này đều là các hoạt động nhằm tăng cường nhận thức. Biện pháp để khuyến khích các hành vi PCTN như rà soát và chuyển đổi các vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng hay tham gia vào các sáng kiến PCTN ít nhận được sự phản hồi hơn, lần lượt với các tỷ lệ 25% và 12%. Tất nhiên, nếu tính tỷ trọng trong tổng số doanh nghiệp thì con số này nhỏ hơn, đi từ 45% số doanh nghiệp có quy tắc ứng xử trong kinh doanh đến 7% doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động PCTN.

Hình 42. Các hoạt động phòng chống tham nhũng do doanh nghiệp thực hiện


2.2.5. Ðấu thầu.

Một lĩnh vực nằm ở trung tâm của sự tương tác giữa doanh nghiệp và nhà nước tiềm ẩn nhiều nguy cơ tham nhũng là đấu thầu mua sắm hàng hóa và dịch vụ của các cơ quan công quyền. Cuộc khảo sát đã hỏi các đối tượng phỏng vấn về quan điểm và trải nghiệm của họ trong lĩnh vực đấu thầu. 28% CBCC và 17% doanh nghiệp nói đơn vị của họ có tham gia và/hoặc tổ chức các hoạt động đấu thầu trong 12 tháng qua.

Trong số các CBCC nói cơ quan của họ có các hoạt động đấu thầu thì 19,2% đánh giá việc đấu thầu chỉ là hình thức, 11% cho rằng có sự chạy chọt hoặc thông đồng để thắng thầu và 13,9% nói việc đấu thầu không công khai, minh bạch (Hình 43). Những con số này thậm chí còn đáng lo ngại hơn khi hỏi doanh nghiệp, với 26% cho rằng đấu thầu chỉ là hình thức, 27% nói có sự chạy chọt, thông đồng để thắng thầu và khoảng 21% cho rằng đấu thầu không minh bạch (Hình 44). Lưu ý rằng trong số các đối tượng nói họ có thông đồng, chạy chọt để thắng thầu thì có đến 32% CBCC và 28% doanh nghiệp cũngvẫn nói rằng quy trình là minh bạch, rõ ràng. Hoàn thiện cơ chế đối trọng và kiểm soát trong quy trình đấu thầu rõ ràng chỉ là một phần của chương trình cải cách cần có. Ðiều quan trọng nữa là phải tăng cường kiểm soát những người chịu trách nhiệm tổ chức đấu thầu -- thừa nhận vai trò đặc biệt quan trọng của việc phải có được lòng tin công chúng của người nắm giữ vị trí đó, đồng thời cần chú trọng hơn nữa đến việc kiểm tra lối sống của họ.

Hình 43. Ðánh giá của CBCC về hoạt động đấu thầu trong cơ quan, đơn vị.


Hình 44. Ðánh giá của doanh nghiệp về hoạt động đấu thầu mà họ tham gia.


2.2.6. Tuyển dụng và đề bạt cán bộ .

Hình 45 và Hình 46 minh họa các kết quả trả lời của CBCC khi được hỏi về tầm quan trọng của một số tiêu chí trong công tác tuyển dụng và đề bạt cán bộ trong cơ quan, đơn vị của họ. Trong khi một tỷ lệ áp đảo số người trả lời tin rằng năng lực và thành tích là hai yếu tố chính trong tuyển dụng và đề bạt cán bộ, thì vẫn còn một con số khá lớn cho rằng quan hệ với người có thế lực và sự thân quen, bạn bè đóng vai trò quan trọng.

Khoảng 18-19% số người trả lời cho rằng quan hệ với những người có thế lực giúp được tuyển dụng và đề bạt. Tương tự, có 13-16% số người trả lời đồng ý rằng có quan hệ bạn bè, thân quen là yếu tố quan trọng trong tuyển dụng và đề bạt. Mặc dù có ít CBCC nói rằng tặng quà, tiền đóng vai trò quan trọng trong tuyển dụng, nhưng chúng ta vẫn thấy trong Mục 2.1.2.4 rằng nhiều người dân cho biết họ phải chi trả các khoản chi phí không chính thức để xin việc trong các cơ quan nhà nước. Có thể có người tự hỏi vì sao người dân lại hối lộ để xin việc trong các cơ quan nhà nước cho dù mức lương nhận được trong khu vực công rất thấp. Có rất nhiều các cơ hội hoặc động cơ khác để thu hồi được khoản "đầu tư" này thông qua các khoản lót tay hoặc "phong bì" trong khu vực công có thể giải thích cho thực tế có vẻ mâu thuẫn này. Kiên trì các nỗ lực tăng cường coi trọng tài năng trong hệ thống công vụ của Việt Nam để hạn chế tình trạng "chạy chức'"mua chỗ", đồng thời cũng giảm thiểu cơ hội trục lợi trong khu vực này vẫn sẽ là những nội dung quan trọng trong chương trình PCTN của Việt Nam trong những năm tới.

Hình 45. Tầm quan trọng của các yếu tố trong tuyển dụng công chức.


Hình 46. Tầm quan trọng của các yếu tố trong đề bạt công chức.


2.2.7. Vai trò của cơ quan truyền thông.

Các cơ quan truyền thông từ lâu đã được công nhận là một lực lượng hùng hậu trong cuộc chiến chống tham nhũng. Luật PCTN năm 2005 đã dành Ðiều 86 nói về vai trò và trách nhiệm của báo chí, kêu gọi sự chủ động, tích cực của lực lượng này trong việc đăng tải các trường hợp tham nhũng và thúc đẩy sự hiểu biết, nhận thức của công chúng về PCTN, đồng thời cũng yêu cầu tính chuyên nghiệp trong việc đăng tải thông tin một cách trung thực, khách quan.

Những người được phỏng vấn trong cuộc khảo sát doanh nghiệp và CBCC đã khẳng định sự nhất trí cao của họ với nhận định cho rằng các cơ quan truyền thông đã thành công trong việc phát hiện các vụ việc tham nhũng và gây áp lực buộc các cơ quan chức năng phải vào cuộc trong những vụ tưởng như đã "chìm xuồng" (Hình 47). Hơn 80% đối tượng thuộc hai nhóm này đồng ý rằng các cơ quan truyền thông đã phát hiện thành công nhiều vụ việc và buộc phải xử lý, trong khi chỉ có chưa đến 10% không đồng ý với nhận định này. Ðồng thời, những người trả lời cũng có xu hướng đồng ý rằng, cho dù ở một chừng mực ít phổ biến, báo chí đôi khi cũng thổi phồng sự việc và có thể chưa đóng vai trò tích cực trong việc tuyên truyền các yếu tố tích cực hay chỉ rõ những nơi, những ngành đã làm tốt công tác PCTN.

Hình 47. Vai trò của cơ quan truyền thông trong việc giúp đấu tranh chống tham nhũng (tỷ lệ phần trăm đồng ý và rất đồng ý)


CBCC các cơ quan trung ương cũng có cái nhìn tích cực về cơ quan truyền thông, mặc dù ít tích cực hơn hai nhóm còn lại: Trong khi 84% CBCC cấp phường/xã tin rằng báo chí đã phát hiện được nhiều vụ việc tham nhũng thì chỉ có 77% CBCC cấp bộ và các cơ quan trung ương tin vào điều đó (Hình 48). Xu hướng này đảo ngược khi hỏi về việc báo chí đôi khi thổi phồng sự việc: 83% CBCC cấp bộ và cơ quan trung ương nói rằng báo chí đôi khi đã cường điệu hóa tình hình, thì chỉ có khoảng 70% CBCC cấp phường/xã và quận/huyện có ý kiến như vậy.

Hình 48. Ai có cái nhìn tích cực hơn về cơ quan truyền thông.


Tuy cuộc khảo sát cho thấy hầu hết đối tượng trả lời phỏng vấn trong khối CBCC và doanh nghiệp đều nhìn thấy cả mặt tích cực và tiêu cực của cơ quan truyền thông, nhưng điều quan trọng cần lưu ý là các đánh giá tích cực nhiều hơn nhiều so với các nhận định tiêu cực. Hơn nữa, khi được hỏi về các ngành hoặc lĩnh vực có hiện tượng tham nhũng thì chưa đến 1% số người trả lời chọn báo chí trong số các ngành, lĩnh vực tham nhũng nhất (Hình 8), và khoảng 93% số người trả lời cho rằng họ biết được về tham nhũng là nhờ các cơ quan truyền thông (Hình 30). Nhìn tổng thể, đối tượng phỏng vấn đánh giá báo chí như một đồng minh quan trọng và đầy tiềm năng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng.

2.2.8. Sự cần thiết của các biện pháp phòng chống tham nhũng.

Khi thiết kế các cuộc cải cách PCTN, rất cần thiết để biết được cải cách nào sẽ được ủng hộ và cải cách nào sẽ bị phản đối quyết liệt. Cuộc khảo sát hỏi các đối tượng phỏng vấn xem họ có cảm thấy hàng loạt những cải cách dự kiến có cần thiết hay không, và kết quả được trình bày trong Hình 49. Mức độ phổ biến và nghiêm trọng của tham nhũng đã khiến xã hội quan tâm và công chúng sẵn sàng làm bất cứ điều gì để giảm tham nhũng. Với mỗi biện pháp được đề xuất, ít nhất có hai phần ba số người trả lời cho rằng cải cách đó là cần thiết.

Hình 49. Sự đồng thuận về tính cấp thiết của các biện pháp phòng chống tham nhũng giữa các đối tượng CBCC, doanh nghiệp và người dân (tỷ lệ phần trăm nói cần thiết)


Phản hồi về sự cần thiết của các biện pháp PCTN có sự đồng thuận rất cao giữa các nhóm đối tượng phỏng vấn. Người dân mong đợi việc áp dụng bất cứ biện pháp gì mà các nhà hoạch định chính sách đưa ra nhằm hạn chế tham nhũng. Quả thực, những phản hồi có tính chất ủng hộ của người dân cao hơn so với CBCC và doanh nghiệp trong hầu hết các trường hợp. Trong nhóm CBCC, ủng hộ các giải pháp PCTN khá cao, nhưng sự hậu thuẫn của họ cho giải pháp "Công khai hóa tài sản và thu nhập" là thấp nhất trong ba nhóm đối tượng. Cần lưu ý rằng, mặc dù có sự khác biệt nhưng hơn hai phần ba số CBCC đồng ý với việc phải công khai hóa tài sản. Ðồng thời, CBCC cũng ủng hộ giải pháp "Người nhận hối lộ nếu tự giác nộp lại tiền/quà biếu trước khi bị phát hiện sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự" cao hơn so với người dân và doanh nghiệp. Cuối cùng, sự nhất trí cao về việc phải định kỳ lấy phiếu tín nhiệm đối với lãnh đạo cho thấy tầm quan trọng của giới lãnh đạo trong việc gây dựng niềm tin cho nhân viên và công chúng, coi đây là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong các nỗ lực chống tham nhũng có tính hệ thống.

2.2.9. Bằng chứng thực tế : biện pháp nào có hiệu quả?

Mặc dù không có một công thức đơn giản để hạn chế tham nhũng nhưng kết quả cuộc khảo sát này có thể gợi mở một số giải pháp hiệu quả. Với mục tiêu cố gắng tìm ra những khuyến nghị có khả năng áp dụng vào thực tế, kết quả khảo sát sẽ giúp chúng ta nhận diện những giải pháp phát huy tác dụng để có thể nhân rộng, và nhận diện những giải pháp dường như không có tác dụng. Những giải pháp nào chưa phát huy hiệu quả thì sẽ được điều chỉnh hoặc bớt ưu tiên. Trong một số trường hợp, kết quả khảo sát có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn vì sao một số giải pháp lại không phát huy được tác dụng và cần sửa đổi như thế nào.

Ðể xác định được giải pháp nào có tác dụng, giải pháp nào không, nhóm nghiên cứu đã tận dụng lợi thế của phương pháp khảo sát xã hội học. Cuộc khảo sát này phản ánh quan điểm của cả CBCC, những người nắm vững về môi trường thể chế mà họ đang làm việc, người dân và doanh nghiệp, những đối tượng có thể cho biết trải nghiệm thực tế của họ với các khoản chi phí ngoài quy định. Việc kết hợp kết quả của ba loại khảo sát này có thể giúp nhận diện khía cạnh môi trường thể chế và giải pháp PCTN nào đang thực sự phát huy tác dụng.

Ðể tiến hành phân tích này, nhóm nghiên cứu đã lấy kết quả đánh giá của CBCC về hàng loạt các giải pháp PCTN khác nhau đang được thực hiện và tính giá trị trung bình của chúng ở cấp tỉnh/thành phố và quận/huyện. 13 nhóm vấn đề được đánh giá -- từ việc áp dụng hệ thống coi trọng tài năng trong công vụ, mức độ hiệu quả của biện pháp kê khai tài sản, đến mức lương -- có thể được xem như những "nhân tố" để giảm tham nhũng.

Tiếp đó, nhóm nghiên cứu cũng tính toán tỷ lệ người dân và doanh nghiệp tại mỗi tỉnh/thành phố và quận/huyện nói rằng họ phải đưa hối lộ trong 12 tháng qua cũng như nhận thức của người dân về mức độ tham nhũng tại tỉnh/thành phố và quận/huyện nơi họ sinh sống. Như đã nêu trên đây, nắm được cả trải nghiệm thực tế lẫn nhận thức về tham nhũng đều rất quan trọng, vì các doanh nghiệp và người dân đưa ra quyết định của mình dựa trên cảm nhận của họ. Có ba thước đo về tham nhũng -- hai thước đo dựa vào trải nghiệm thực tế và một thước đo dựa vào nhận thức -- có thể được xem như các "kết quả" của phương trình tham nhũng.

Kết hợp số liệu khảo sát từ các đối tượng khác nhau theo cách này cho phép chúng ta nhận diện được mối quan hệ giữa môi trường thể chế với mức độ tham nhũng tốt hơn rất nhiều so với khi chỉ sử dụng số liệu khảo sát từ một đối tượng duy nhất. Cuộc khảo sát này chỉ thực hiện ở 10 tỉnh/thành phố nên sẽ không có gì ngạc nhiên khi thấy số liệu chỉ phản ánh một sự tương quan lỏng giữa các yếu tố thể chế và mức độ tham nhũng ở cấp tỉnh/thành phố. Ðể tăng số quan sát, chúng tôi cũng tính toán tất cả các biến tương tự ở cấp quận/huyện. Với 3 quận/huyện cho mỗi tỉnh/thành phố, tổng cộng có 30 quận/huyện. Con số này giúp cho bộ số liệu có ý nghĩa hơn về mặt thống kê và có thể sử dụng để phân tích. Tham nhũng do nhiều nguyên nhân gây ra nên ngay cả 30 quan sát cũng chưa phải là con số lớn. Vì vậy, nếu mối tương quan chưa đạt tới mức có ý nghĩa thống kê thì cũng là điều dễ hiểu. Nhưng điều lo ngại đã không xảy ra và các kết quả tính toán đều có mức ý nghĩa thống kê đủ lớn.

Kết quả phân tích cho thấy ở nhiều nơi, việc thực hiện các biện pháp về thể chế nói chung và PCTN nói riêng (từ khảo sát ý kiến của CBCC) thực sự có làm giảm mức độ tham nhũng (từ khảo sát ý kiến của người dân và doanh nghiệp). Mặc dù có thể có hàng loạt các yếu tố quan trọng khác để giải thích đồng thời cho mức độ tham nhũng và môi trường thể chế, việc phân tích mối tương quan đơn giản ít nhất cũng cho chúng ta những bằng chứng và gợi mở ban đầu là liệu các biện pháp PCTN và thể chế có liên quan đến mức độ tham nhũng hay không. Kết quả này được gộp chung thành hai nhóm lớn : các biện pháp có vẻ đang phát huy tác dụng làm giảm tham nhũng; và các biện pháp chưa phát huy tác dụng.

Nói cách khác, đó là những biện pháp có mối tương quan rất yếu về mặt thống kê với mức độ tham nhũng thấp. Bảng 3 tóm tắt lại các kết quả (Phụ lục 2 trình bày chi tiết hơn về mức ý nghĩa thống kê và biểu đồ tán xạ phản ánh tất cả các mối tương quan).

Bảng 3. Các yếu tố thể chế gắn với mức độ tham nhũng thấp.
[caption id="attachment_4918" align="aligncenter" width="550"] _Ghi chú : Tất cả các tương quan đều có dấu âm, có nghĩa là những nơi quan tâm hơn đến các yếu tố thể chế này thì có mức độ tham nhũng thấp hơn. Mức ý nghĩa của các tương quan này được thể hiện như sau:
*** mức ý nghĩa 1%
** mức ý nghĩa 5%
* mức ý nghĩa 10%[/caption]

Các biện pháp có mối tương quan rõ ràng nhất đến mức độ tham nhũng thấp là :
(i) Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn. Ở cả cấp tỉnh/thành phố lẫn cấp quận/huyện, và theo nhận định về tham nhũng của cả người dân và doanh nghiệp, những nơi mà CBCC đánh giá việc "xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn có hiệu quả hạn chế tham nhũng ở nơi làm việc" cũng là những nơi có mức độ tham nhũng thực tế thấp. Ðây là một thí dụ rõ ràng cho thấy thực hiện thật tốt các chính sách PCTN trong cơ quan, đơn vị có thể mang lại kết quả tích cực.
(ii) Công khai và minh bạch. Ở cả cấp tỉnh/thành phố và cấp quận/huyện, nơi nào CBCC đánh giá "công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan, đơn vị là một biện pháp hiệu quả để hạn chế tham nhũng ở nơi làm việc" thì nơi đó có mức độ tham nhũng thực tế thấp, theo nhận định về tham nhũng của cả người dân và doanh nghiệp. Ðây là một thí dụ khác cho thấy việc thực hiện và nhân rộng các chính sách đảm bảo tính minh bạch có thể tạo ra kết quả tích cực.
(iii) Cải cách hành chính. Ở cả cấp tỉnh/thành phố và cấp quận/huyện, cải cách hành chính được thể hiện rõ nét nhất qua cảm nhận của người dân, những nơi mà CBCC đánh giá cải cách hành chính có tác dụng hạn chế tham nhũng ở nơi làm việc dường như là những nơi mức độ tham nhũng thấp.
(iv) Chuyển đổi vị trí công tác của CBCC. Chính sách "chuyển đổi vị trí công tác của CBCC" có liên quan đến mức độ tham nhũng thấp (theo cảm nhận của người dân), và ở cấp quận/huyện còn gắn với cả mức hối lộ thấp.
(v) Chính sách nhân sự dựa trên tài năng. Ở cấp tỉnh/thành phố, việc tuyển dụng và đề bạt cán bộ dựa trên năng lực và thành tích của đối tượng chứ không dựa vào sự hậu thuẫn của những người có thế lực hoặc quan hệ thân quen, có gắn với mức tham nhũng thấp, theo ý kiến của cả người dân và doanh nghiệp. Ðiều đáng lưu ý là kết luận này chỉ đúng ở cấp tỉnh/thành phố, chứ không đúng ở cấp quận/huyện. Có thể là do phạm vi tạo ra áp lực cạnh tranh ở cấp tỉnh/thành phố lớn hơn vì thị trường lao động ở cấp này lớn hơn ở cấp quận/huyện.
(vi) Mức độ sẵn sàng tố cáo. Các tỉnh có nhiều CBCC nói rằng nếu họ biết một trường hợp tham nhũng ở nơi làm việc, chắc chắn họ sẽ báo với người có thẩm quyền thường cũng là những nơi có mức độ tham nhũng thấp. Ðiều này cũng đúng với những nơi mà mọi người cảm thấy tự tin trong việc tố cáo tham nhũng.

Phân tích này cũng chỉ ra nhiều biện pháp chưa phát huy tác dụng rõ nét, bao gồm hệ thống kê khai tài sản và thu nhập, quy định buộc người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm về tình hình tham nhũng trong tổ chức của mình, sử dụng bộ quy tắc ứng xử hay quy tắc đạo đức nghề nghiệp, và trả lương qua tài khoản ngân hàng.

Những biện pháp này, như hiện nay đang làm, chỉ có tương quan lỏng lẻo với mức độ tham nhũng thấp. Trong thời gian tới, có thể giảm mức độ ưu tiên cho các biện pháp này hoặc có sự điều chỉnh cần thiết để các biện pháp này phát huy tác dụng tốt hơn. Hai yếu tố khác nữa cũng không có nhiều ý nghĩa trong việc giảm mức độ tham nhũng ở cấp tỉnh/thành phố và cấp quận/huyện. Ðó là quy định về việc CBCC nộp lại quà biếu và mức lương của CBCC.

2.3. So sánh với Khảo sát năm 2005.

Vì khảo sát về PCTN năm 2005 được tiến hành khi Luật PCTN chưa được ban hành, cuộc khảo sát này là xuất phát điểm để xây dựng bộ bảng hỏi cho Khảo sát năm 2012 nên một số câu hỏi được giữ nguyên nhằm cho phép so sánh kết quả giữa hai đợt khảo sát này. Ðể đảm bảo tính chặt chẽ và phù hợp trong so sánh, chúng tôi tập trung vào 7 tỉnh và 3 bộ đã là đối tượng khảo sát năm 2005. Trong mục này, chúng tôi tóm tắt những điểm giống và khác nhau cơ bản về kết quả của hai cuộc khảo sát.

Trong cả hai cuộc khảo sát năm 2005 và 2012, đối tượng dự phỏng vấn được yêu cầu nêu cảm nhận của họ về những ngành/lĩnh vực tham nhũng nhất. Ở cả hai cuộc khảo sát, 3 nhóm đối tượng đều có sự đồng thuận rất cao khi nêu ý kiến về những ngành/lĩnh vực có tham nhũng phổ biến nhất. Bốn trong năm ngành được các đối tượng khảo sát cho là tham nhũng phổ biến nhất trong Khảo sát năm 2005 vẫn đứng đầu danh sách trong Khảo sát năm 2012. Tài chính công và thuế, ngành đứng vị trí thứ tư trong Khảo sát năm 2005, đã ra khỏi danh sách "5 ngành đứng đầu" trong Khảo sát năm 2012.

Giao thông được cả người dân và CBCC xếp vào "5 ngành đứng đầu" trong Khảo sát năm 2012 và quản lý khoáng sản cũng được doanh nghiệp xếp vào danh sách này năm 2012, cho dù chúng không có mặt trong danh sách tương tự của Khảo sát năm 2005. Mặc dù chúng ta có thể đã chứng kiến những cải thiện đáng kể trong một số ngành, thí dụ như hải quan, nhưng mức độ cải thiện vẫn chưa đáp ứng được sự kỳ vọng của công chúng và hải quan vẫn tiếp tục đứng trong tốp 5 ngành tham nhũng nhất, theo cảm nhận của người dân (9)

Bảng 4. Các ngành/lĩnh vực có tham nhũng phổ biến nhất trong Khảo sát năm 2005 và Khảo sát năm 2012.


Trong cả Khảo sát năm 2005 và Khảo sát năm 2012, phiếu khảo sát CBCC có nêu 12 hành vi tham nhũng và hỏi rằng liệu CBCC có biết rõ hành vi nào trong khoảng thời gian 12 tháng trước đó hay không. Kết quả Khảo sát năm 2012 đã được trình bày trong Hình 29. Kết quả so sánh với Khảo sát năm 2005 được trình bày ở Hình 50. Một sự thay đổi tích cực là đối với tất cả các hành vi tham nhũng, tỷ lệ CBCC có chứng kiến trong năm 2012 đã giảm so với năm 2005. Kiểu hành vi này cũng khá tương đồng giữa hai cuộc khảo sát: việc xếp hạng các hành vi theo tần suất của chúng gần như là giống hệt nhau (10)

Hình 50. CBCC quan sát thấy những hành vi nào trong năm 2005 và 2012? (tỷ lệ phần trăm số người chứng kiến trong 12 tháng qua)
[caption id="attachment_4920" align="aligncenter" width="550"] Ghi chú: Số liệu thể hiện của năm 2012 được giới hạn trong 7 tỉnh/thành phố nằm trong mẫu khảo sát năm 2005. Ðối với cả 2 năm, các thanh thể hiện phần trăm tổng số người trả lời, kể cả những người trả lời "không biết".[/caption]

Cuộc khảo sát người dân năm 2005 và năm 2012 cũng có nhiều câu hỏi giống nhau, cho phép chúng ta có thể so sánh được. Một câu hỏi xoay quanh bốn hình thức tham nhũng mà CBCC tạo ra khi giao dịch với người dân. Kết quả (Hình 51) cho thấy tình trạng người dân gặp phải những hình thức đó đã có xu hướng giảm trong khoảng thời gian 2005-2012, với tỷ lệ người dân phải tiếp xúc với ba trong bốn hình thức đó đã giảm, còn một hình thức nữa là gợi ý trực tiếp thì tỷ lệ gần như không đổi.

Hình 51. Các hình thức tham nhũng mà người dân đã chứng kiến trong năm 2005 và năm 2012 (%)
[caption id="attachment_4921" align="aligncenter" width="550"] Ghi chú: Ðồ thị này thể hiện tỷ lệ số người được phỏng vấn nói đến các hình thức này, đó là cách tính toán các con số năm 2005. Vì thế, kết quả năm 2012 không trực tiếp so sánh được với những con số được thể hiện trong Hình 26, vì Hình 26 tập trung vào phân nhóm đối tượng phỏng vấn khẳng định có chi các khoản ngoài quy định.[/caption]

Ðối với khảo sát doanh nghiệp, cũng có thể so sánh những câu hỏi giống nhau trong hai cuộc khảo sát này. Vì mẫu Khảo sát năm 2005 chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước nên chúng tôi tách mẫu doanh nghiệp Khảo sát năm 2012 thành hai nhóm để tiện so sánh : doanh nghiệp có vốn nhà nước và doanh nghiệp không có vốn nhà nước.

Một lần nữa, chỉ có 7 tỉnh/thành phố được đưa vào phân tích để đảm bảo sự tương đồng trong so sánh.

Các doanh nghiệp được hỏi liệu họ có phải đối mặt với hình thức nào trong số 6 hình thức gây khó khăn của các cơ quan nhà nước không, và kết quả của cả hai cuộc khảo sát năm 2005 và năm 2012 được biểu diễn trong Hình 52. Năm trong sáu hình thức gây khó khăn có tỷ lệ doanh nghiệp phải đối mặt trong năm 2012 cao hơn so với năm 2005. Chỉ có một hình thức là doanh nghiệp trong Khảo sát năm 2012 ít gặp hơn, đó là "CBCC gợi ý doanh nghiệp làm theo ý muốn của cán bộ phụ trách". Vì thế, mặc dù việc so sánh kết quả trong khảo sát người dân và CBCC cho thấy có một số dấu hiệu tiến triển lạc quan thì so sánh dữ liệu khảo sát doanh nghiệp lại không chứng tỏ sự cải thiện này.

Hình 52. Hình thức tham nhũng mà doanh nghiệp đối mặt trong năm 2005 và 2012
[caption id="attachment_4922" align="aligncenter" width="550"] Ghi chú: Hình 52 thể hiện phần trăm trên tổng số người trả lời đã gặp phải vấn đề nói trên, do đây là cách số liệu năm 2005 được thể hiện.[/caption]

Các doanh nghiệp được hỏi họ đã làm gì khi đối mặt với các hình thức tham nhũng của cán bộ/cơ quan nhà nước. So sánh giữa Khảo sát năm 2005 và Khảo sát năm 2012 cho thấy các doanh nghiệp áp dụng ít hơn đối với hầu hết các giải pháp được đưa ra. Họ cũng ít tìm đến sự can thiệp của những người có thế lực, tòa án hoặc các cơ quan thông tin đại chúng. Tuy nhiên, họ cũng phần nào sử dụng nhiều hơn giải pháp "trực tiếp đưa hối lộ cho cán bộ phụ trách". Xu hướng hành xử này nhất quán với các phát hiện khác trong cuộc khảo sát rằng cần có nhiều nỗ lực hơn nữa để biến các doanh nghiệp thành đồng minh trong cuộc chiến đấu chống tham nhũng.

Hình 53. Phản ứng của doanh nghiệp trước những hình thức tham nhũng, năm 2005 và năm 2012
[caption id="attachment_4923" align="aligncenter" width="550"] Ghi chú: Số mẫu chỉ giới hạn trong 7 tỉnh/thành phố và doanh nghiệp nhà nước như ở Khảo sát năm 2005.[/caption]

Doanh nghiệp được hỏi vì sao họ đưa hối lộ. Năm 2005, các doanh nghiệp có xu hướng chọn nhiều lý do giải thích hơn so với năm 2012. Chỉ có một ngoại lệ là tỷ lệ doanh nghiệp chọn phương án "các doanh nghiệp khác cũng làm như thế" là tương tự như nhau trong cả hai đợt khảo sát (Hình 54).

Hình 54. Vì sao các doanh nghiệp đưa hối lộ, năm 2005 và năm 2012 (%)


Tóm lại, so sánh kết quả Khảo sát năm 2005 và Khảo sát năm 2012 cho chúng ta một bức tranh lộn xộn về tiến bộ đạt được trong kiềm chế tham nhũng. Một mặt, có sự tương đồng đáng kể ở cả hai cuộc khảo sát về những ngành được cho là tham nhũng phổ biến nhất. Bốn trong năm ngành đều xuất hiện trong cả hai cuộc khảo sát, tuy thứ tự thì có hoán đổi : cảnh sát giao thông, quản lý đất đai, hải quan và xây dựng. Mặc dù có thể đã có những cải thiện nhất định ở những ngành này trong thời gian qua, song mức độ tiến bộ chưa đủ để làm thay đổi nhận thức của xã hội về hình ảnh những ngành có tình trạng tham nhũng phổ biến nhất (11). Ðánh giá của người dân và CBCC cho thấy có những dấu hiệu về sự chuyển biến tích cực. So sánh với Khảo sát năm 2005, tỷ lệ CBCC năm 2012 chứng kiến 12 hành vi tham nhũng đã giảm. Tương tự, tỷ lệ người dân cho biết họ có đối mặt với các hình thức tham nhũng trong năm 2012 cũng đã thấp hơn. Trái lại, mẫu doanh nghiệp lại cho thấy một bức tranh tiêu cực hơn về xu hướng tham nhũng giữa hai cuộc khảo sát. Năm 2012 có nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với các hình thức tham nhũng hơn so với năm 2005, trong đó chỉ có "đưa hối lộ trực tiếp" là hình thức ít có sự khác biệt. Trong cả hai cuộc khảo sát, khoảng một phần tư số doanh nghiệp tự nguyện đưa hối lộ vì "các doanh nghiệp khác cũng làm như vậy". Ðiều này cho thấy cần có những biện pháp thúc đẩy các hành động tập thể tích cực, không thể cứ để mặc doanh nghiệp tự học lẫn nhau về hành vi tham nhũng.

2.4. So sánh với các cuộc khảo sát khác.

Mẫu khảo sát người dân và doanh nghiệp -- một bộ phận của khảo sát xã hội học về PCTN -- là một trong số nhiều cuộc khảo sát khác về nhận thức và trải nghiệm về tham nhũng. Về mặt định tính, khảo sát này có nhiều sự nhất quán với các cuộc khảo sát khác : vai trò của hối lộ khi xin việc trong cơ quan nhà nước được xác định trong PAPI 2011, và tần suất trả phí ngoài quy định trong dịch vụ y tế cũng đã được PAPI và Báo cáo Phát triển Việt Nam năm 2010 chỉ ra. Việc nhiều doanh nghiệp sẵn sàng đưa hối lộ để được việc cũng được chỉ ra trong nghiên cứu về hiện trạng tham nhũng trong kinh doanh của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và DEPOCEN. Các phát hiện cụ thể theo ngành trong ngành giáo dục và quản lý đất đai nói chung đều thống nhất với các nghiên cứu của GIRI và Công ty Tư vấn T&C, còn phát hiện về y tế và cảnh sát giao thông cũng phản ánh kết luận trong các nghiên cứu của Tổ chức Hướng tới Minh bạch, trong đó có cả Phong vũ biểu Tham nhũng toàn cầu. Phát hiện về những tiến bộ nhất định trong một số hình thức tham nhũng liên quan đến thực hiện các luật, chính sách và quy định tương tự như kết luận của Chỉ số Cạnh tranh cấp tỉnh năm 2012, Ðiều tra Doanh nghiệp của Ngân hàng Thế giới (2005-2009) và Báo cáo Phát triển Việt Nam năm 2010.

Ðể khẳng định một cách hệ thống hơn xu hướng tương đồng hay khác biệt trong các kết quả của Khảo sát xã hội học về PCTN so với cuộc khảo sát tương tự khác, nhóm nghiên cứu tìm cách xác định những câu hỏi nhìn chung là tương tự với các cuộc khảo sát khác ở phạm vi quốc gia. Hai cuộc khảo sát phù hợp nhất là Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) -- cuộc khảo sát người dân do UNDP, CECODES và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiến hành, và Chỉ số Cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) -- cuộc khảo sát doanh nghiệp do VNCI và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tiến hành. Cả hai cuộc khảo sát này đều triển khai trên 63 tỉnh/thành phố. Tất cả 10 tỉnh/thành phố tham gia cuộc Khảo sát xã hội học về PCTN này đều nằm trong diện khảo sát của PAPI và PCI.

2.4.1. Cảm nhận và trải nghiệm của người dân so với PAPI.

Bảng hỏi PAPI có những câu hỏi liên quan đến 5 loại giao dịch khác nhau giữa người dân và Nhà nước mà trong Khảo sát xã hội học về PTCN cũng có: y tế, giáo dục, đất đai, xây dựng và xin việc trong khu vực nhà nước. Các câu hỏi không giống nhau và sẽ có những khác biệt nhất định do trọng tâm của các câu hỏi khác nhau và cách chọn mẫu cũng khác nhau... Tuy nhiên, kết quả trong PAPI và trong Khảo sát xã hội học về PCTN lại giống nhau đến lạ lùng Cách tiếp cận khi đặt câu hỏi trong PAPI bao hàm những yếu tố vừa mang tính cảm nhận, vừa mang tính trải nghiệm. Hầu hết các câu hỏi là về sự tương tác nói chung, chứ không đi sâu vào trải nghiệm thực tế, song các câu hỏi lại hướng trọng tâm vào các dạng giao dịch mà người dân đã từng trải nghiệm và cách sử dụng cụm từ "những người như tôi" sẽ hướng sự chú ý của người được phỏng vấn vào những trải nghiệm thực tế của họ.

Ðồng thời, vì câu hỏi không đề cập đến trải nghiệm thực tế và được đặt ra cho tất cả các đối tượng trả lời, kể cả những người không tham gia các giao dịch, nên câu hỏi PAPI cũng hàm chứa các yếu tố của cảm nhận. Vì lý do này, nhóm nghiên cứu đã xem xét mối tương quan với cả những câu hỏi về "cảm nhận" lẫn câu hỏi "trải nghiệm thực tế" của những người đã có giao dịch với các cơ quan nhà nước trong Khảo sát xã hội học về PCTN. Bảng 5 tóm tắt các kết quả.

Bảng 5. PAPI và Khảo sát xã hội học về PCTN .


Ở cấp tỉnh/thành phố, chỉ có 10 quan sát nên việc chỉ tìm thấy những mối tương quan ít ý nghĩa thống kê cũng là điều dễ hiểu, ngay cả khi thực sự có mối tương quan đó trong tổng thể. Tuy nhiên, đối với ba loại tương tác, mối tương quan giữa PAPI và Khảo sát xã hội học về PCTN là khá cao. Ðối với cả ngành y tế và giáo dục, mức độ tương quan giữa câu hỏi PAPI và Khảo sát xã hội học về PCTN về trải nghiệm liên quan đến tham nhũng là hết sức cao, còn về vấn đề tìm việc thì mức độ tương quan cũng rất cao.
Hình 55 biểu diễn đồ thị tán xạ về đánh giá cấp tỉnh/thành phố trong cả Khảo sát xã hội học về PCTN và PAPI.

Hình 55. PAPI và Khảo sát xã hội học về PCTN.
[caption id="attachment_4926" align="aligncenter" width="550"] Ghi chú: Do tỷ lệ xích của các câu hỏi khác nhau nên con số trên các trục không liên quan đến nhau. Ðường xu thế phản ánh mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 10% trở lên.[/caption]

Với những câu hỏi liên quan đến đất đai và xây dựng, không có mối tương quan có ý nghĩa thống kê với các đánh giá ở cấp tỉnh/thành phố. Có nhiều lý do khiến y tế, giáo dục và việc làm thể hiện mối tương quan mạnh, trong khi các câu hỏi về đất đai và xây dựng lại không. Lý do thứ nhất là, những ước lượng ở cấp tỉnh/thành phố về các khoản chi trả ngoài quy định về đất đai và xây dựng do Khảo sát xã hội học về PCTN cung cấp dựa trên một số lượng quan sát tương đối ít. Vì câu hỏi tập trung vào trải nghiệm thực tế nên câu hỏi về cấp "sổ đỏ" chẳng hạn chỉ được đặt ra cho một mẫu nhỏ các đối tượng trả lời phỏng vấn có tìm cách xin "sổ đỏ" trong 12 tháng qua. Mặc dù số hộ trong toàn bộ mẫu có xin cấp "sổ đỏ" và có trả lời câu hỏi về khoản chi trả không chính thức là tương đối lớn (386 người), nhưng số người trên mỗi tỉnh/thành phố đôi khi lại không nhiều. Ba tỉnh/thành phố có ít hơn 30 quan sát trên mỗi tỉnh/thành phố. Sự khác biệt này còn lớn hơn trong trường hợp xin giấy phép xây dựng : chỉ có hai tỉnh/thành phố có trên 30 hộ dân tham gia khảo sát đã xin giấy phép xây dựng, sửa chữa nhà cửa trong 12 tháng qua. Trái lại, ước lượng về y tế chính xác hơn nhiều: mỗi tỉnh/thành phố có ít nhất 120 người trả lời. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng số quan sát trong mỗi tỉnh/thành phố về giáo dục và việc làm cũng không lớn, do đó đây chỉ là một phần của lời giải thích.

Lý do thứ hai dẫn đến sự khác biệt là câu hỏi và cách tiếp cận trong PAPI và Khảo sát xã hội học về PCTN khác nhau ở nhiều khía cạnh quan trọng. Mặc dù cả PAPI và Khảo sát xã hội học về PCTN đều hỏi đối tượng khảo sát về chi trả ngoài quy định cho việc xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (hay "sổ đỏ"), nhưng PAPI đặt câu hỏi với tất cả các đối tượng. Do đó, có thể câu hỏi về đưa hối lộ khi xin cấp "sổ đỏ" có chứa yếu tố cảm nhận về những vụ tham nhũng quy mô lớn liên quan đến việc cấp đất. Quả thực, tương quan với câu hỏi trong Khảo sát xã hội học về PCTN về nhận thức liên quan đến tham nhũng trong quản lý đất đai tỷ lệ thuận ở mức ý nghĩa thống kê 15%, mặc dù câu hỏi về trải nghiệm tham nhũng thì không có tương quan đó.

Xét tổng thể, hai cuộc khảo sát này có mối tương quan rất lớn. Với 10 tỉnh/thành phố và 5 ngành, tổng cộng có 50 ngành, tỉnh/thành phố để so sánh kết quả. Hệ số tương quan 0,62 là rất có ý nghĩa. Trong điều kiện chỉ có 10 tỉnh/thành phố được khảo sát thì độ tương quan giữa PAPI và Khảo sát xã hội học về PCTN rất đáng kinh ngạc, cho chúng ta sự tin tưởng rằng khác biệt về cách chọn mẫu và phương pháp nghiên cứu giữa hai cuộc khảo sát này đã không chi phối đáng kể đến hầu hết các kết quả.

Ðồng thời, sự khác biệt trong kết quả nhắc chúng ta phải thận trọng khi diễn giải kết quả. Quan trọng hơn, sự khác nhau trong câu hỏi và cách tiếp cận chứng tỏ cả hai cuộc khảo sát đều có đóng góp hữu ích vào hiểu biết của chúng ta về tham nhũng ở Việt Nam.

2.4.2. Nhận thức và trải nghiệm của lãnh đạo doanh nghiệp.

Mẫu khảo sát doanh nghiệp trong khuôn khổ Khảo sát xã hội học về PCTN không phải là nỗ lực đầu tiên để nắm bắt quan điểm của những người lãnh đạo doanh nghiệp về vấn đề tham nhũng. Một khảo sát tương tự được biết đến nhiều nhất là cuộc khảo sát làm nền tảng cho việc xây dựng Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Sáng kiến về Năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI) và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tính toán. Cuộc khảo sát này, được tiến hành định kỳ hằng năm kể từ năm 2005, có một số câu hỏi rất giống với những câu hỏi trong khảo sát doanh nghiệp nằm trong Khảo sát xã hội học về PCTN. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong khi phương pháp khảo sát của Khảo sát xã hội học về PCTN và PAPI tương tự như nhau thì điều đó lại không đúng với PCI. Trong khi Khảo sát xã hội học về PCTN dùng cách phỏng vấn đối thoại trực tiếp thì PCI lại khảo sát qua thư. Trong số các doanh nghiệp được liên hệ để phỏng vấn trong Khảo sát xã hội học về PCTN có đến 80% số doanh nghiệp cuối cùng đã tham gia khảo sát thì tỷ lệ phản hồi ở PCI chỉ khoảng 35%. Mặc dù khác nhau về phương pháp và tỷ lệ trả lời, tìm hiểu những điểm giống và khác nhau trong kết quả của hai cuộc khảo sát sẽ giúp đặt các kết quả của Khảo sát xã hội học về PCTN vào đúng bối cảnh hơn.

Bảng 6 phản ánh ba câu hỏi giống nhau nhất giữa PCI và Khảo sát xã hội học về PCTN, và độ tương quan trong các câu trả lời ở cấp tỉnh/thành phố. Trong số ba câu hỏi giống nhau này, hai câu cho thấy mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa các đánh giá ở cấp tỉnh/thành phố trong PCI và Khảo sát xã hội học về PCTN: mức độ doanh nghiệp bị gợi ý đưa hối lộ và mức độ khoản tiền hối lộ giúp đạt kết quả mong muốn. Mặc dù chỉ có 10 tỉnh/thành phố được đưa ra so sánh, nhưng các xu hướng mà Khảo sát xã hội học về PCTN và PCI nêu lên lại tương tự như nhau.

Bảng 6. PCI và Khảo sát xã hội học về PCTN.


Hình 56 thể hiện bằng đồ thị mối quan hệ giữa các chỉ báo cấp tỉnh/thành phố trong Khảo sát xã hội học về PCTN với PCI. Ðộ tương quan cao giữa hai trong ba chỉ báo này rất rõ. Cũng như với PAPI, những tương quan này cho phép chúng ta tin vào sự tương đồng tổng thể giữa hai cuộc khảo sát, đồng thời sự khác biệt giữa chúng khiến hai cuộc khảo sát bổ sung cho nhau, chứ không loại trừ nhau.

Hình 56. PCI và Khảo sát xã hội học về PCTN
[caption id="attachment_4928" align="aligncenter" width="550"] Ghi chú: Do tỷ lệ xích của các câu hỏi khác nhau nên con số trên các trục không liên quan đến nhau. Ðường xu thế phản ánh mối quan hệ với mức ý nghĩa thống kê từ 10% trở lên.[/caption]


_ Chú thích :
6. Ðể tiện cho việc trình bày, mức độ phổ biến và rất phổ biến được gộp làm một.
7. Ðể tiện cho việc trình bày, mức độ nghiêm trọng và rất nghiêm trọng được gộp làm một.
8. Những tác động này vẫn còn rất mạnh khi giữ nguyên các yếu tố như quy mô, tính chất sở hữu, ngành/lĩnh vực hoạt động và tỉnh/thành phố. Khi giữ nguyên các biến này, tác động vẫn còn đáng kể ở mức ý nghĩa thống kê 10% với việc doanh nghiệp có đưa hối lộ hay không và mức ý nghĩa thống kê 5% với việc doanh nghiệp thường xuyên đến đâu trong việc dùng quà biếu để giải quyết khó khăn.
9. Thí dụ, Ðiều tra doanh nghiệp của Ngân hàng Thế giới đã cho thấy mức độ phổ biến của việc chi trả chi phí không chính thức đã giảm từ năm 2005 đến năm 2009, và Chỉ số Hiệu quả Logistic của Ngân hàng Thế giới cũng phản ánh những tiến bộ tương tự với 62% số doanh nghiệp được điều tra nói rằng hiện tượng vòi vĩnh chi trả ngoài quy định đã được cải thiện từ năm 2009.
10. Vì Hình 50 chỉ dựa trên số liệu của 7 tỉnh/thành phố và 3 bộ đã tham gia Khảo sát năm 2005 nên con số trong Hình 50 không giống như trong Hình 29, vốn được phân tích dựa trên số liệu của tất cả 10 tỉnh/thành phố và 5 bộ.
11. Thí dụ, xem Chú thích 10 mô tả bằng chứng về những cải thiện trong ngành hải quan.


1    2    3

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.