Tính sổ Trung Quốc

PHẦN I

Bắc Kinh đã thách thức những kỳ vọng của Mỹ như thế nào.


Thời đại của những cảm xúc tốt đẹp: Xi và Obama tại Trung Quốc, tháng 9 năm 2016. DAMIR SAGOLJ / REUTERS
 Kurt M. Campbell và Ely Ratner Theo Foreign Affairs

Trần H Sa lược dịch

Hoa Kỳ luôn có khả năng phán đoán quá cở về khả năng xác định cách cư xử của Trung Quốc. Hết lần này đến lần khác, tham vọng của nó đã nhích từng bước ngắn. Sau Thế chiến II, George Marshall, đặc phái viên Hoa Kỳ tại Trung Quốc, hy vọng làm người môi giới hòa bình giữa những người Quốc gia và Cộng sản trong Nội chiến Trung Quốc. Trong Chiến tranh Triều Tiên, chính quyền Truman nghĩ rằng họ có thể  ngăn cản quân đội Mao Trạch Đông vượt qua sông Yalu. Chính quyền Johnson tin rằng Bắc Kinh cuối cùng sẽ hạn chế sự tham gia của Trung quốc vào Việt Nam. Trong mỗi trường hợp, thực tế là Trung Quốc làm đảo lộn kỳ vọng của người Mỹ.

Với việc Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon mở cửa với Trung Quốc, Washington đã đặt cược lớn nhất và lạc quan nhất. Cả Nixon và Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của ông, đều cho rằng việc tái lập quan hệ sẽ định hướng mối quan hệ giữa Bắc Kinh và Moscow và, theo thời gian, thay đổi quan niệm của Trung Quốc về lợi ích của chính họ, khi họ tiến gần đến Hoa Kỳ. Vào mùa thu năm 1967, Nixon đã viết trên tạp chí này ( Foreign Affairs ) : "Thế giới không thể an toàn cho đến khi nào Trung Quốc chưa thay đổi. Do đó, mục tiêu của chúng ta, ở mức độ mà chúng ta có thể tác động đến các sự kiện, sẽ tạo ra sự thay đổi". Suốt từ đó, giả định rằng việc làm sâu sắc các mối quan hệ thương mại, ngoại giao và văn hóa sẽ thay đổi sự phát triển hành vi bên trong và bên ngoài của Trung Quốc, là một nền tảng của chiến lược Hoa Kỳ. Ngay cả những người trong giới chính sách của Hoa Kỳ, những người hoài nghi về ý định của Trung Quốc, vẫn chia sẻ niềm tin cơ bản rằng sức mạnh và quyền bá chủ của Hoa Kỳ có thể dễ dàng đưa Trung Quốc vào ý thích của Hoa Kỳ.

Gần nửa thế kỷ kể từ khi Nixon lần đầu tiên tiến tới việc tái lập quan hệ, thành tích ngày càng rõ ràng là Washington một lần nữa đặt quá nhiều niềm tin vào sức mạnh của mình để định hình quỹ đạo của Trung Quốc. Mọi khía cạnh của sự tranh luận chính sách đều sai lầm : các thương nhân và các nhà tài chính tự do, những người thấy trước sự cởi mở ngày càng tăng không thể tránh khỏi ở Trung Quốc, các nhà chủ trương hội nhập cho rằng, tham vọng của Bắc Kinh sẽ được chế ngự bởi sự tương tác lớn hơn với cộng đồng quốc tế và những người diều hâu tin rằng sức mạnh của Trung Quốc sẽ bị thủ tiêu bởi tính ưu việt liên tục của Mỹ.

Có phải Mỹ đã mắc sai lầm ở Trung Quốc ?

Chẵng phải củ cà rốt mà cũng chẵng phải cây gậy đã ảnh hưởng đến Trung Quốc như dự đoán. Tham gia ngoại giao và thương mại đã không mang lại sự cởi mở về chính trị và kinh tế. Chẵng phải sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ, mà cũng chẵng phải sự cân bằng trong khu vực đã ngăn chặn Bắc Kinh tìm cách thay thế các thành phần cốt lõi của hệ thống do Hoa Kỳ lãnh đạo. Và trật tự tự do quốc tế đã thất bại trong việc lôi kéo hoặc ràng buộc Trung Quốc mạnh mẽ như mong đợi. Thay vào đó, Trung Quốc đã theo đuổi cách ứng xử của riêng mình, mang lại một loạt kỳ vọng của Mỹ theo sau quá trình này.

Thực tế đó cho phép một sự suy nghĩ lại với tầm nhìn tinh tường, về cách tiếp cận của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Có rất nhiều rủi ro đi kèm với việc đánh giá lại như vậy; những người bảo vệ khuôn khổ hiện tại, sẽ cảnh báo chống lại sự mất ổn định mối quan hệ song phương, hoặc mời gọi một cuộc Chiến tranh Lạnh mới. Nhưng việc xây dựng một cách tiếp cận mạnh mẽ, bền vững hơn - và mối quan hệ - với Bắc Kinh đòi hỏi sự trung thực, về việc có bao nhiêu giả định cơ bản đã sai lầm. Trên quang phổ hệ tư tưởng, chúng tôi, trong cộng đồng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, vẫn đầu tư sâu sắc vào những kỳ vọng về Trung Quốc - về cách tiếp cận kinh tế, chính trị trong nước, an ninh và trật tự toàn cầu - ngay cả khi bằng chứng chống lại họ có cả hàng đống. Các chính sách được xây dựng dựa trên những kỳ vọng như vậy đã thất bại trong việc thay đổi Trung Quốc theo những cách chúng ta dự định hoặc hy vọng.

SỨC MẠNH CỦA THỊ TRƯỜNG 

Tương tác thương mại lớn hơn với Trung Quốc được cho là mang lại tự do hóa dần dần, nhưng ổn định cho nền kinh tế Trung Quốc. Chiến lược an ninh quốc gia của Hoa Kỳ năm 1990 của Tổng thống Hoa Kỳ George H. W. Bush, đã mô tả các mối quan hệ được tăng cường với thế giới là "rất quan trọng đối với triển vọng của Trung Quốc trong việc lấy lại con đường cải cách kinh tế". Lập luận này chiếm ưu thế trong nhiều thập niên. Nó định hướng các quyết định của Hoa Kỳ cho phép Trung Quốc được hưởng tình trạng thương mại "tối huệ quốc" vào những năm 1990, hỗ trợ cho việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2001, thiết lập cuộc đối thoại kinh tế cấp cao vào năm 2006, và đàm phán một hiệp ước đầu tư song phương dưới thời Tổng thống  Hoa Kỳ Barack Obama.

Thương mại hàng hóa giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc bùng nổ từ mức dưới 8 tỷ đô la năm 1986 lên hơn 578 tỷ đô la trong năm 2016: tăng hơn 30 lần, thích nghi theo lạm phát. Tuy nhiên, kể từ những năm đầu của thế kỷ này, tự do hóa kinh tế của Trung Quốc đã bị đình trệ. Trái với mong đợi của phương Tây, Bắc Kinh đã tăng gấp đôi mô hình tư bản nhà nước, ngay cả khi nước này đã trở nên giàu có hơn. Thay vì trở thành một lực lượng cho sự cởi mở hơn, sự tăng trưởng đặc sắc đã phục vụ để hợp pháp hóa Đảng Cộng sản Trung Quốc và mô hình kinh tế do nhà nước lãnh đạo.

Các quan chức Hoa Kỳ tin rằng nợ nần, kém hiệu quả và nhu cầu của một nền kinh tế tiên tiến hơn, sẽ đòi hỏi phải cải cách hơn nữa. Và các quan chức Trung Quốc đã nhận ra những vấn đề với cách tiếp cận của họ; Năm 2007, Thủ tướng Ôn Gia Bảo gọi nền kinh tế Trung Quốc là không ổn định, không cân bằng, không liên kết và không bền vững. Thay vì mở cửa đất nước để cạnh tranh lớn hơn - Đảng Cộng sản Trung Quốc, với ý định duy trì sự kiểm soát nền kinh tế - đã củng cố các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và theo đuổi các chính sách công nghiệp (đáng chú ý là kế hoạch Made in China 2025) , nhằm mục đích thúc đẩy ngành công nghệ quốc gia đạt được vô địch trong các lĩnh vực quan trọng, bao gồm hàng không vũ trụ, ứng dụng sinh học và robot. Và bất chấp những lời hứa lặp đi lặp lại, Bắc Kinh đã chống lại áp lực từ Washington và các nơi khác - đòi san bằng sân chơi cho các công ty nước ngoài. Nó đã hạn chế tiếp cận thị trường và buộc các công ty không phải là người Trung Quốc phải ký kết liên doanh và chia sẻ công nghệ, đồng thời đầu tư và trợ cấp cho các công ty trong nước được nhà nước hậu thuẫn.

Cho đến gần đây, các nhà hoạch định chính sách và giám đốc điều hành của Hoa Kỳ hầu hết chấp nhận sự phân biệt đối xử như vậy; tiềm năng lợi ích thương mại lớn đến mức họ cho rằng " thật là không khôn ngoan nếu nâng cao mối quan hệ với chủ nghĩa bảo hộ hoặc các biện pháp trừng phạt". Thay vào đó, họ đã chiến đấu quyết liệt để có những nhượng bộ nhỏ và kiếm lời. Nhưng bây giờ, những gì từng được coi là sự thất vọng ngắn hạn trong việc làm ăn với Trung Quốc, đã trở nên có hại và lâu dài hơn. Phòng Thương mại Hoa Kỳ năm ngoái báo cáo rằng tám trong mười công ty Hoa Kỳ cảm thấy ít được chào đón hơn ở Trung Quốc so với các năm trước, và hơn 60%  ít tin tưởng hoặc không tin rằng Trung Quốc sẽ mở cửa thị trường hơn nữa trong ba năm tới. Các cơ chế hợp tác và tự nguyện để thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc mở rộng, đã thất bại nặng nề, bao gồm cả đối thoại kinh tế toàn diện mới được đưa ra bởi chính quyền Trump.

Thành phố phát triển nhanh : khu tài chính của Thượng Hải, tháng 11 năm 2013. 

NHU CẦU TỰ DO HÓA 

Tăng trưởng được cho là sẽ không chỉ mang lại mở cửa kinh tế mà còn tự do hóa chính trị. Sự phát triển sẽ châm ngòi cho một chu kỳ tự hoàn thiện, ý tưởng đi đến, với một tầng lớp trung lưu Trung Quốc đang phát triển, họ sẽ đòi hỏi các quyền mới và các quan chức thực dụng thực hiện các cải cách pháp lý cần thiết cho sự tiến bộ hơn nữa. Sự tiến hóa này dường như đặc biệt chắc chắn sau sự sụp đổ của Liên Xô và quá trình chuyển đổi dân chủ ở Hàn Quốc và Đài Loan. "Không có quốc gia nào trên trái đất phát hiện ra cách nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của thế giới, trong khi ngăn chặn các ý tưởng nước ngoài nằm tại biên giới", ông George George W. W. Bush tuyên bố. Chính sách của Hoa Kỳ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình này bằng cách chia sẻ công nghệ, đẩy mạnh thương mại và đầu tư, thúc đẩy trao đổi giữa người với người, và tiếp nhận hàng trăm ngàn sinh viên Trung Quốc vào các trường đại học Mỹ.

Cuộc đàn áp những người biểu tình ủng hộ dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, đã làm mờ hy vọng về sự xuất hiện của nền dân chủ bầu cử ở Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia và nhà hoạch định chính sách ở Hoa Kỳ vẫn mong đợi chính phủ Trung Quốc cho phép tự do báo chí nhiều hơn, và cho phép một xã hội dân sự mạnh mẽ hơn, trong khi dần dần chấp nhận cạnh tranh chính trị nhiều hơn trong cả Đảng Cộng sản và ở cả cấp địa phương. Họ tin rằng cuộc cách mạng công nghệ thông tin trong những năm 1990 sẽ khuyến khích những xu hướng như vậy, bằng cách tiếp tục đưa công dân Trung Quốc ra với thế giới và tăng cường khuyến khích cởi mở kinh tế. Như Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã nói, "Không có tự do hoàn toàn để suy nghĩ, để đặt câu hỏi, để tạo ra, Trung Quốc sẽ gặp bất lợi rõ rệt khi cạnh tranh với các xã hội hoàn toàn cởi mở trong thời đại thông tin, nơi mà nguồn tài sản quốc gia lớn nhất là nơi tồn tại trong tâm trí con người". Các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh sẽ nhận ra rằng chỉ bằng cách chấp nhận các quyền tự do cá nhân, Trung Quốc mới có thể phát triển mạnh trong tương lai với công nghệ cao.

Nhưng nỗi sợ là, sự cởi mở hơn sẽ đe dọa cả sự ổn định trong nước và sự sống còn của chế độ, đã thúc đẩy các nhà lãnh đạo Trung Quốc tìm kiếm một cách tiếp cận khác. Họ lấy cả cú sốc của Quảng trường Thiên An Môn và sự tan rả của Liên Xô làm bằng chứng về sự nguy hiểm của dân chủ hóa, và cạnh tranh chính trị. Vì vậy, thay vì chấp nhận chu trình tích cực của sự cởi mở, Bắc Kinh đã phản ứng với các lực lượng toàn cầu hóa bằng cách dựng lên các bức tường, và thắt chặt sự kiểm soát của nhà nước, bóp lại, thay vì củng cố dòng người tự do, ý tưởng và thương mại tự do. Các yếu tố tăng mạnh thêm vào chế độ trong thế kỷ này -  bao gồm cả suy thoái kinh tế, tham nhũng đặc hữu trong chính phủ và quân đội, và những ví dụ đáng ngại về các cuộc nổi dậy phổ biến ở những nơi khác trên thế giới - không ít, đã thúc đẩy chủ nghĩa độc tài.

Thật vậy, các sự kiện của thập kỷ trước đã dập tắt những hy vọng khiêm tốn nhất cho tự do hóa chính trị. Vào năm 2013, một bản ghi nhớ của nội bộ Đảng Cộng sản  được gọi là Tài liệu số 9, đã rõ ràng cảnh báo chống lại "nền dân chủ lập hiến của phương Tây" và các "giá trị phổ quát" khác như là những bình phong, có nghĩa là làm suy yếu, gây bất ổn và thậm chí phá vỡ Trung Quốc. Hướng dẫn này đã chứng minh khoảng cách ngày càng lớn giữa kỳ vọng của Hoa Kỳ và Trung Quốc đối với tương lai chính trị của đất nước. Như Orville Schell, một chuyên gia hàng đầu của Mỹ về Trung Quốc, nói rằng: "Trung Quốc đang trượt ngược trở lại vào một bầu không khí chính trị gợi nhớ đến Mao Trạch Đông vào những năm 1970 hơn là với Đặng Tiểu Bình vào những năm 1980". Ngày nay, đàn áp đang diễn ra với các nhà báo, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các học giả, các nhà hoạt động xã hội và luật sư nhân quyền cho thấy không có dấu hiệu dịu lại - hơn 300 luật sư, trợ lý pháp lý và nhà hoạt động đã bị giam giữ chỉ riêng trong năm 2015.

Thay vì trao quyền lực cho người dân Trung Quốc, như nhiều người ở phương Tây dự đoán, các công nghệ truyền thông đã củng cố bàn tay của nhà nước, giúp chính quyền độc tài Trung Quốc kiểm soát các luồng thông tin và giám sát hành vi của người dân. Kiểm duyệt, giam giữ và một luật mới về an ninh mạng cho phép chính phủ Trung Quốc kiểm soát rộng rãi trên Internet, đã đặt các hoạt động chính trị ở bên trong bức tường lửa của Trung Quốc. Chủ nghĩa độc tài thế kỷ hai mươi mốt của Trung Quốc hiện bao gồm các kế hoạch khởi động một "hệ thống tín nhiệm xã hội", hợp nhất khối dữ liệu to lớn và trí tuệ nhân tạo để thưởng phạt công dân Trung Quốc trên cơ sở hoạt động chính trị, thương mại, xã hội và trực tuyến của họ. Phần mềm nhận dạng khuôn mặt, kết hợp với sự phổ biến của các camera giám sát trên khắp Trung Quốc, thậm chí còn khiến nhà nước có thể xác định vị trí con người trong vòng vài phút.

̣( Còn tiếp )


 _ KURT M. CAMPBELL là Chủ tịch Tập đoàn Châu Á và là Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ về các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương từ năm 2009 đến 2013.
      _ ELY RATNER là thành viên cao cấp của Maurice R. Greenberg về nghiên cứu Trung Quốc tại Hội đồng quan hệ đối ngoại và là Phó cố vấn an ninh quốc gia cho Phó tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden từ 2015 đến 2017.


1    2
------------------------|||--------------------------

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.