Hợp tác từ Sức mạnh. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Biển Đông.

Hoa Kỳ, Trung Quốc và Biển Đông.

Một báo cáo quan trọng về vai trò của Mỹ và Trung Quốc tại Biển Đông vừa được công bố bởi một tổ chức nghiên cứu có quan hệ chặt với Nhà Trắng. Tài liệu 115 trang, ra mắt ngày 10/01, có tựa “Hợp tác từ Sức mạnh: Hoa Kỳ, Trung Quốc và Biển Nam Trung Hoa”. Nhóm tác giả thuộc trung tâm An ninh Hoa Kỳ Mới (Center for a New American Security - CNAS).Báo cáo kêu gọi Mỹ gia tăng số lượng tàu chiến.

M. Taylor Fravel. J A N U A R Y / 2 0 1 2 . Center for New Amemican Security.
Bản tiếng Anh lấy từ :Trần Hửu Dũng

Dưới đây là phần đầu, chương hai của tài liệu nói trên.

BHM Lược dịch.

CHƯƠNG II : AN NINH HÀNG HẢI TẠI BIỂN ĐÔNG VÀ CẠNH TRANH VỀ QUYỀN HÀNG HẢI

Từ năm 2009, sự cạnh tranh quyền lợi hàng hải trong vùng biển Nam Trung Quốc đã nổi lên như là một vấn đề an ninh quan trọng nhất ở Đông Á. Thật vậy, một nhà phân tích thậm chí còn tuyên bố gần đây rằng Biển Đông là "nhà hát trung tâm mới của các cuộc xung đột" trên thế giới.


Tuy nhiên, mặc dù cạnh tranh liên tục, xung đột vũ trang trong Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ) đến nay là có thể tránh khỏi bởi nhiều lý do. Các quốc gia trong khu vực đang cạnh tranh về quyền hàng hải nhiều hơn so với các vấn đề an ninh khác , đặc biệt là tuyên bố chủ quyền lãnh thổ trên các hòn đảo và những rạn san hô. Cạnh tranh quyền hàng hải tại Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ) đã không bị quân sự hóa, và cũng không đạt mức mất ổn định khu vực như từng chứng kiến ​​giữa năm 1988 và năm 1995. Tháng 7 năm 2011 thỏa thuận giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc về hướng dẫn thực hiện Tuyên bố Ứng xử năm 2002 của các bên ở Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ) đã tạo ra không gian ngoại giao dể
thở có thể được khai thác để giảm căng thẳng. Các sáng kiến ​​hợp tác sẽ làm giảm sự cạnh tranh trong tương lai về quyền hàng hải nhưng lại sẽ đòi hỏi ý chí chính trị và tích cực ngoại giao để tiến về phía trước.

Hơn nữa, mặc dù Trung Quốc ngày càng bảo vệ những tuyên bố của mình trong Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa), phạm vi và nội dung của những tuyên bố không thay đổi. Lãnh đạo Trung Quốc nhận thức rằng các quốc gia khác đang thách thức những tuyên bố lâu nay của Trung Quốc, và Trung Quốc đang phản ứng với khả năng thực thi của hàng hải dân sự được cải thiện. Trung Quốc đã tránh các biện pháp khiêu khích, chẳng hạn như sử dụng lực lượng hải quân thực thi các tuyên bố của mình.

Để phân tích và đánh giá nguy cơ của xung đột vũ trang trên Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ), chương này đánh giá trên xu hướng an ninh hàng hải khu vực theo quá trình vài năm qua, bao gồm cả chủ quyền lãnh thổ trên các nhóm đảo, hàng hải, quyền khai thác tài nguyên biển và đáy biển, và tự do lưu thông hàng hải.. Cạnh tranh trên các vấn đề này có thể làm tăng sự mất ổn định khu vực hoặc thậm chí dẫn đến xung đột vũ trang. Tuy nhiên, cơ hội gia tăng hợp tác về vấn đề an ninh cũng tồn tại. Hướng về phía trước, Hoa Kỳ phải cân bằng những nỗ lực để duy trì sự ổn định ở Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa), chỉ với hành động vô tình, có thể làm tăng sự không ổn định ; chẳng hạn như tham gia nhiều hơn trong việc cố gắng giải quyết tranh chấp - một hành động mà nhiều quốc gia trong khu vực sẽ giải thích như là một sự từ bỏ chính sách trung lập truyền thống của Hoa Kỳ trong các các vấn đề tranh chấp lãnh thổ .

Những mối quan tâm về An ninh Hàng hải ở biển Đông.

Trung tâm An ninh Hoa Kỳ Mới (Center for a New American Security - CNAS)

Nhiều quốc gia, trong khu vực và trên thế giới, có lợi ích an ninh hàng hải ở Biển Đông. Những lợi ích này bao gồm các tuyên bố chủ quyền đối với các hòn đảo và các rạn san hô, tuyên bố độc quyền khai thác tài nguyên biển, tự do hàng hải trên biển và trò chơi chạy đua hiện đại hóa hải quân trong khu vực. Sự cạnh tranh bởi mổi một bất kỳ hoặc tất cả những lợi ích này có thể ảnh hưởng đến sự ổn định khu vực.

Tuy nhiên, kể từ khoảng 2006, vấn đề an ninh hàng hải quan trọng trong vùng biển Đông ( biển Nam Trung Quốc ) đã được các bên cạnh tranh khẳng định và thực thi quyền hàng hải trong vùng biển này.

Các công bố về chủ quyền hải đảo Và các rạn san hô.

Khía cạnh đầu tiên của an ninh hàng hải liên quan đến việc tuyên bố chủ quyền đến hải đảo và những vùng đất đặc trưng khác, chẳng hạn như các rạn san hô. Trong Biển Đông ( Nam Trung Quốc ), có hai tranh chấp khác nhau trên vấn đề chủ quyền thực sự của quyền chủ quyền lãnh thổ . Đầu tiên là một tranh chấp song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc đã kiểm soát hoàn toàn kể từ 1974, thứ hai là một tranh chấp đa phương về quần đảo Trường Sa, bao gồm khoảng 230 điểm đặc trưng, chủ yếu là hải đảo nhỏ, đảo nhỏ không có người ở và các rạn san hô. Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan , tất cả đều tuyên bố "chủ quyền không thể chối cãi" đối với tất cả những vùng đất đặc trưng này.



Philippines tuyên bố 53 đảo và cụm đảo, trong khi Malaysia tuyên bố 12. Việt Nam hiện đang chiếm 27 điểm, nhiều nhất trong bất kỳ các quốc gia tranh chấp.Philippines chiếm tám điểm : Trung Quốc, bảy ; Malaysia, năm ; và Đài Loan, một. Đảo đầu tiên bị chiếm đóng vào năm 1956 khi Quân đội Quốc Dân Đảng từ Đài Loan lập một đơn vị đồn trú thường xuyên tại đảo Thái Bình (Itu Aba), đảo lớn nhất trong các đảo tranh chấp. Các bên tranh chấp khác không bắt đầu thiết lập một sự hiện diện thường trực cho đến đầu những năm 1970. Trung Quốc bắt đầu thiết lập sự hiện diện bằng vủ lực vào tháng Giêng năm 1988, mà kết quả trong một xung đột với Việt Nam vào tháng 3 năm 1988 giết chết 74 thủy thủ Việt Nam. Các vùng đất đặc trưng cuối cùng được Malaysia và Việt Nam chiếm đóng theo thứ tự vào năm 1998 và năm 1999. Trung Quốc đã không chiếm một điểm tranh cải nào kể từ cuối năm 1994, khi họ khéo léo chiếm hửu rạn san hô được đặt tên Mischief Reef.

Tuyên bố quyền hàng hải và thẩm quyền.

Quan tâm an ninh hàng hải thứ hai liên quan đến việc khẳng định quyền hàng hải, đặc biệt là tuyên bố Đặc quyền kinh tế (EEZ) và Thềm lục địa mở rộng. Quyền hàng hải liên quan đến vấn đề không chủ quyền nhưng có thẩm quyền - cho dù các quốc gia có quyền khai thác bất cứ tài nguyên gì được chứa trong biển và đáy biển (ngoài tài nguyên đặc biệt là dầu khí , còn có cả thủy sản và khoáng sản). Quyền hàng hải đang tranh chấp chỉ ở trong một phần của Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa), vùng biển rộng lớn trải dài từ miệng sông Pearl ở Trung Quốc đến đầu đảo Natuna của Indonesia. Nói chung, các vùng đặc quyền kinh tế Trung Quốc tuyên bố từ bờ biển của họ, bao gồm Quảng Đông và tỉnh đảo Hải Nam, là được thừa nhận rộng rải. Tuy nhiên, phần phía nam của biển Đông thì đang bị tranh cải nặng nề bởi tất cả các bên tranh chấp quần đảo Trường Sa và Quần đảo Hoàng Sa, cũng như Indonesia.

Các nhà nước khác nhau biện minh cho đòi hỏi của mình về quyền hàng hải theo những cách khác nhau. Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei khẳng định yêu cầu của mình từ bờ biển của họ. Indonesia khẳng định quyền hàng hải từ đảo Natuna . Trung Quốc, tuy nhiên, cơ sở của các quyền hàng hải dựa vào những tuyên bố chủ quyền của họ trên các nhóm đảo tranh chấp, chẳng hạn như quần đảo Trường Sa, được tính như là bờ biển của Trung Quốc đại lục. Tuy nhiên, hầu hết (nhưng không tất cả) các điểm trong quần đảo Trường Sa sẽ không hội đủ điều kiện là đảo theo quy định tại điều 121 của Công ước về Luật biển của Liên Hợp Quốc và do đó có thể không thỏa mản như là cơ sở để đòi hỏi một vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa mở rộng. Kết quả là, nhiều nhà quan sát xem Trung Quốc tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế có xu hướng bành trướng bởi vì nó bao gồm một khu vực có thẩm quyền quyền hàng hải lớn hơn các quốc gia ven biển khác và là bất hợp pháp vì một phần đòi hỏi được dựa trên các vùng đất đặc trưng sẽ không đủ điều kiện như là hải đảo theo điều 121. Hơn nữa, " đường chử U " xuất hiện trên bản đồ khu vực của Trung Quốc tạo nên mơ hồ thêm nửa, bởi vì, như Ian Storey tranh luận trong một chương khác thuộc đề tài này, chính phủ Trung Quốc chưa bao giờ xác định được đường chử U này miêu tả cái gì....
1    2    3    4    5

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.