Hợp tác từ Sức mạnh. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Biển Đông.

Hoa Kỳ, Trung Quốc và Biển Đông.

M. Taylor Fravel. JANUARY / 2012 . Center for New Amemican Security.

CHƯƠNG II : AN NINH HÀNG HẢI TẠI BIỂN ĐÔNG VÀ CẠNH TRANH VỀ QUYỀN HÀNG HẢI.

PHẦN III.


BHM Lược dịch.

HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI VÀ LUẬT THI HÀNH HÀNG HẢI DÂN SỰ.

Khi các quốc gia khẳng định và bảo vệ yêu cầu của mình thông qua ngoại giao từ năm 2006, họ cũng tìm cách chứng minh và thực thi các quyền hàng hải mà họ tuyên bố. Đặc biệt, các nước tìm cách thực hiện các quyền này thông qua thương mại, đánh bắt cá và các hoạt động khai thác hydrocarbon, cũng như các nỗ lực, đặc biệt là Trung Quốc, thực thi các tuyên bố bằng các hoạt động tranh chấp thương mại với các quốc gia khác.


Đánh bắt cá.

Các ngư dân đã đóng một vai trò trung tâm trong việc khẳng định quyền hàng hải trong vùng biển Đông (biển Nam Trung Hoa ).Những vùng biển này đã cung cấp ngư trường cho tất cả các quốc gia duyên hải , và nhiều ngư trường truyền thống chồng chéo lên nhau. Kết quả là, ngư dân thường biện minh cho những hoạt động trong vùng biển tranh chấp thông qua việc khẳng định quyền hàng hải của chính phủ họ . Ngư dân Trung Quốc hoạt động ở phần phía nam của biển Đông gần Indonesia và Việt Nam, ví như, trong khi các thuyền Việt Nam và Philippines hoạt động trong các phần phía bắc gần quần đảo Hoàng Sa.

Trong thập kỷ qua, Trung Quốc đã tăng cường khả năng giám sát đánh bắt cá trong vùng biển tranh chấp và thực thi luật đánh bắt cá áp dụng trong nội bộ nước Trung quốc. Cơ quan chính thức của Trung Quốc được giao nhiệm vụ này là Cục quản lý Hành chính ngành thuỷ sản khu vực Biển Đông Trung quốc (SSRFAB, nanhaiqu yuzhengju), nó là một bộ phận trong Cục Quản lý Thủy sản thuộc Bộ Nông nghiệp TQ . Ngoài ra, còn điều chỉnh ngành công nghiệp đánh bắt cá quốc nội của Trung Quốc tại Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ), SSRFAB có hai mục tiêu gây ảnh hưởng đến các tranh chấp về quyền hàng hải.

Đầu tiên, các thuyền lớn của SSRFAB hộ tống thuyền đánh bắt cá Trung Quốc (Huyu) khi chúng hoạt động tại các vùng biển tranh chấp. Đội thuyền hộ tống cung ứng cứu nạn, hổ trợ cho các tàu thuyền đánh cá Trung Quốc, mà còn thực hiện thẩm quyền của Trung Quốc trên vùng biển này ( Do đó hỗ trợ các tuyên bố của Trung Quốc đến quyền hàng hải ) và bảo vệ ngư dân Trung Quốc khi họ bị thách thức bởi tàu từ các quốc gia khác.

Thứ hai, SSRFAB tìm cách ngăn chặn tàu nước ngoài hoạt động trong phạm vi Trung Quốc tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế bằng việc tự ý xâm nhập vào các tàu này và kiểm tra , thu tiền phạt và tịch thu sản lượng đánh bắt cùng các thiết bị, cũng như trục xuất các tàu từ vùng biển Trung Quốc tuyên bố chủ quyền .

Trong thập kỷ qua, SSRFAB đã dần dần tăng sự hiện diện của nó trong vùng biển Đông ( biển Nam Trung Hoa ). Số ngày mà tàu của SSRFAB có mặt trên biển tăng từ 477 năm 2005 lên 1.235 trong năm 2009 (Bao gồm cả hoạt động ở Vịnh Bắc Bộ cũng như trong cả hai phần tranh chấp và không tranh chấp ở Biển Đông ( Biển Nam Trung Hoa). Đồng thời, số lượng tàu Việt Nam hoạt động trong vùng biển chung quanh quần đảo Hoàng Sa cũng bắt đầu tăng trong năm 2004, có lẽ vì việc thực hiện thỏa thuận đánh cá Trung Quốc - Việt Nam năm 2000 đã hạn chế đánh bắt cá ở Vịnh Bắc Bộ.. Trung Quốc xem các tàu Việt Nam như thách đố trực tiếp đến tuyên bố chủ quyền của mình trên các đảo và quyền hàng hải trong những vùng nước liền kề. Trong năm 2009, SSRFAB tổ chức 11 hoạt động đặc biệt (zhuanx iang xingdong) chung quanh quần đảo Hoàng Sa, được thực hiện bởi các tàu Yuzheng 308 và Yuzheng 309, mỗi chuyến tuần tra trong số đó kéo dài khoảng 24 ngày.

Trong năm 2009, Trung Quốc mở rộng thời gian một lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương từ 12 độ vỉ bắc trở lên trong những tháng mùa hè, những vùng đã được xác định từ năm 1999 và cử tàu của SSRFAB thực thi lệnh cấm này .Sự kết hợp giữa việc gia tăng hoạt động đánh cá của Việt Nam và SSRFAB tăng cường sức mạnh đã tạo kết quả con số các cuộc đối đầu trên biển ngày càng tăng. Trong năm 2008 và 2009, tàu của SSRFAB đã đe dọa hơn 135 và "Trục xuất" (qugan) hơn 147 đối với tàu ngoại quốc , hầu hết trong số đó khả năng là tàu của Việt Nam.

Ngoài ra, Trung Quốc đã bắt đầu giam giữ thuyền đánh bắt cá và thuyền viên Việt Nam, đôi khi thu tiền phạt hoặc thậm chí tịch thu thuyền. Một tờ báo Việt Nam báo tường trình rằng, giửa năm 2005 và tháng 10 năm 2010, Trung Quốc bắt giữ 63 tàu thuyền đánh cá với 725 thuyền viên. Khoảng một nửa vụ bắt giữ này xảy ra trong năm 2009, khi các nguồn tin Việt Nam cho thấy rằng Trung Quốc đã bắt giữ hoặc tịch thu 33 tàu thuyền và 433 ngư dân. Sự gia tăng bắt giữ xảy ra đồng thời với các hoạt động ngoại giao chung quanh những tuyên bố tranh chấp (được mô tả trong phần trước) và một người Trung Quốc nhận thức rằng Việt Nam đã tăng số lượng các tàu cá hoạt động trong vùng biển tranh chấp. Tổng các con số cho năm 2010 là không có sẵn, nhưng chúng xuất hiện thấp hơn nhiều, khoảng bảy vụ . Thực tế việc giam giữ tàu đánh cá Việt Nam tạm dừng trong năm 2011, nhưng Trung Quốc vẫn tiếp tục tịch thu sản lượng đánh bắt của những tàu mà họ tuyên bố đang hoạt động ở vùng biển Trung Quốc chung quanh quần đảo Hoàng Sa.. Một số những cuộc đối đầu đã gây chết người.

Mặc dù việc giam giữ tàu đánh cá nước ngoài của Trung Quốc nhận được rất nhiều sự chú ý của các phương tiện truyền thông, những cuộc đối đầu gây chú ý của tàu thuyền đánh cá từ các quốc gia tranh chấp khác cũng phổ biến. Theo một nguồn tin Trung Quốc, hơn 300 sự cố đã xảy ra từ năm 1989, trong đó tàu thuyền đánh cá Trung Quốc đã bị nổ súng , giam giữ, hoặc xua đuổi. Trong năm 2009, ví dụ, tàu thuyền Việt Nam đã nổ súng ba lần trên các tàu thuyền Trung Quốc, làm bị thương ba ngư dân Trung Quốc. Cùng năm đó, 10 tàu thuyền đánh cá của Trung Quốc báo cáo đã bị bắt giử. Tương tự như vậy, Việt Nam và Philippines thường xuyên bắt giữ ngư dân của những quốc gia khác.

Dầu khí

Tình trạng đối kháng tương tự ảnh hưởng đến những hoạt động thăm dò của các công ty dầu khí trong vùng biển tranh chấp. Như đã thảo luận ở trên, sự phát triển dầu ngoài khơi Việt Nam gây ra những biện pháp và ít nhất là một mối đe dọa từ Trung Quốc chống lại các công ty dầu mỏ nước ngoài.

Trong nửa đầu năm 2011, Trung Quốc can thiệp vào các cuộc khảo sát địa chấn được tiến hành bởi Việt Nam và Philippines trong vòng vùng đặc quyền kinh tế mà họ tuyên bố. Lực lượng Giám sát hàng hải Trung Quốc (MSF haijian budui), là một phần của Quản lý Hải dương quốc gia, là cơ quan Trung Quốc chủ yếu liên quan đến loạt bài đối đầu này . Như với Cục Quản lý Thuỷ sản, một nhiệm vụ của MSF là "Bảo vệ quyền và lợi ích hàng hải," ngoài ra còn áp đặt việc thực thi luật pháp Trung Quốc đối với các hoạt động hàng hải .Chi nhánh Biển Đông ( Biển Nam Trung Quốc ) của MSF được thành lập vào năm 1999 với trách nhiệm trên các vùng biển tiếp giáp với Ma Cao, Hong Kong, Quảng Đông , Hải Nam và các đảo tranh chấp, nó có 13 chiếc tàu. Theo Quản lý Hải dương quốc gia, các tàu của MSF đã bắt đầu thường xuyên (dingqi) tuần tra trên biển để thực thi luật " quyền bảo hộ " trong năm 2006. Trong tháng tư năm 2010, ví dụ, tàu MSF tiến hành một hành trình trong phần phía nam của Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ), cắm một điểm đánh dấu chủ quyền trên bải cạn James Shoal.

Thông tin về phạm vi và tần số tuần tra của MSF trong vùng biển Đông ( biển Nam Trung Hoa ) không có sẵn trong những nguồn tin không được xếp loại. Trong nửa đầu năm 2011, tuy nhiên, tàu MSF đã tham gia vào hai sự cố riêng biệt, trong đó họ thử thách và phá vỡ các hoạt động khảo sát địa chấn của Việt Nam và Philippines. Sự kiện đầu tiên xảy ra trong tháng ba, khi hai tàu MSF "trục xuất" (ganqu) một tàu khảo sát địa chấn Philippines tại vùng Reed Bank ở phía Tây Bắc của quần đảo Trường Sa.. Theo báo chí Philippines, các tàu MSF hung hăng chuyển động chung quanh chiếc tàu Philippines và buộc phải rời khỏi khu vực.

Sự cố thứ hai xảy ra vào cuối tháng, khi một tàu MSF cắt ngang đuôi tàu khảo sát địa chấn Bình Minh 2, thuộc sở hữu của PetroVietnam, và cắt đứt cáp kéo của nó. Theo báo cáo của Việt Nam, ba tàu MSF đã bị Bình Minh 2 theo dỏi, chúng hoạt động cách bờ biển miền Trung Việt Nam 120 hải lý.

Sự cố thứ ba liên quan đến các tàu thuyền đánh cá của Trung Quốc và tàu SSRFAB xảy ra vào đầu tháng Sáu, nhưng những miêu tả không giống nhau.

Theo Việt Nam, thuyền đánh cá Trung Quốc với một " thiết bị chuyên dụng đặc biệt về dây cáp " đã gài bẫy trong việc lôi kéo các dây cáp của tàu Viking II, một chiếc tàu của Na Uy đang khảo sát một lô dầu khí, thăm dò bởi Talisman Energy (Canada), ngoài khơi bờ biển của miền Nam Việt Nam ở phía tây nam biển Đông ( biển Nam Trung Hoa ) . Theo Trung Quốc, lưới của tàu đánh cá đã bị cuốn vào các thiết bị định vị của Viking II, ám chỉ rằng Viking II điều khiển tàu vụng về và cần bị khiển trách.

Những cuộc đối đầu này cho thấy ba điểm quan trọng trên sự cạnh tranh về quyền hàng hải. Đầu tiên, Trung Quốc leo thang những nỗ lực của mình để diển tập và thực thi các quyền hàng hải của nó khi nó bị cắt đứt những dây cáp. Chưa hề có sự cố tương tự được báo cáo trong những năm trước, mặc dù sau sự cố vào tháng Năm, một quan chức Việt Nam tuyên bố rằng hành vi tương tự đã từng xảy ra trong năm 2010.

Thứ hai, phản ứng chính thức sự cố tháng Năm từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc (MFA) cho thấy rằng việc cắt cáp đã được trù định trước để ngăn chặn khẳng định những tuyên bố của Việt Nam và để thúc đẩy những đòi
hỏi thẩm quyền riêng tư của Trung Quốc.

" Mặc dù sự giam giữ tàu cá nước ngoài của Trung Quốc nhận được rất nhiều sự chú ý của các phương tiện truyền thông, cuộc đối đầu liên quan đến tàu thuyền đánh bắt cá từ các quốc gia khiếu nại khác cũng được phổ biến ".

Phát ngôn viên MFA ám chỉ rằng hành động là một nỗ lực có chủ ý để thực thi tuyên bố của Trung Quốc . Ngày hôm sau vụ việc, phát ngôn viên nói, " Những hoạt động buộc tuân thủ luật pháp của các tàu giám sát hàng hải Trung Quốc chống lại tàu bất hợp pháp của Việt Nam là hoàn toàn hợp lý ".

Thứ ba, tất cả ba sự cố xảy ra sau những hoạt động khảo sát do những yêu sách khác tăng lên, nhấn mạnh tính chất năng động của cạnh tranh về quyền hàng hải hiện nay. Philippines bắt đầu một cuộc khảo sát mới ở Reed Bank trong tháng Hai 2011, ngay trước khi sự cố ngày 02 tháng 3. Những sự cố liên quan đến Việt Nam xảy ra theo sau các cuộc thăm dò bắt đầu từ tháng Ba.

PHƯƠNG DIỆN QUÂN SỰ.

Như đã nói ở trên, hầu hết các cuộc đối đầu giữa các bên tranh chấp có liên quan đến nhân tố thương mại và cơ quan thực thi luật hàng hải dân sự. Ngược lại, lực lượng quân sự đã đóng một vai trò gián tiếp và vai trò hạng hai trong cuộc đối đầu về quyền hàng hải trong vùng biển Đông ( biển Nam Trung Hoa ), chủ yếu như một lời nhắc nhở quan trọng về năng lực phát triển của Trung Quốc, khả năng có thể được sử dụng trong tranh chấp. Yếu tố chính trên phương diện quân sự trong những căng thẳng gần đây là sự hiện đại hóa đều đặn lực lượng hải quân Trung Quốc và sự phô trương tăng cường sức mạnh quân sự của Trung Quốc thông qua các cuộc tuần tra trên biển và các buổi diển tập.

Hiện đại hóa quân đội.

Mặc dù Trung Quốc và Việt Nam có cả hai lực lượng hải quân hiện đại trong thập kỷ vừa qua, những nỗ lực của Trung Quốc đã vượt quá hải quân Việt Nam đến một mức độ đáng kể. Trong Hải quân nhân dân Trung Quốc (PLAN), Hạm đội Biển Nam (SSF) có trụ sở tại Zhanjiang, Quảng Đông, hiện nay lấy làm kiêu hảnh về một vài đội chiến đấu trên biển có khả năng nhất ​​của Trung Quốc, trong đó có năm trong bảy tàu khu trục hiện đại mà Trung Quốc đã mày mò phát triển cách đây 10 năm. Nó cũng bao gồm Kunlunshan, tàu đổ bộ hiện đại đầu tiên của Trung Quốc, trọng tải 20.000 tấn và có thể vận chuyển một tiểu đoàn Thủy quân lục chiến. SSF là có khả năng nhất trong thiết kế của ba hạm đội . Từ năm 2008, sáu chiếc tàu đã tham gia vào ít nhất một trong những nhiệm vụ hộ tống ở Vịnh Aden để thực hiện tuần tra, chống cướp biển, đó là lực lượng hải quân của Trung Quốc được sử dụng liên tục ở nước ngoài đầu tiên, và SSF đã tổ chức một nửa của tám đội tàu nhỏ đến Vịnh Aden.

Cơ sở hạ tầng của SSF đã được nâng cấp gần đây, bao gồm cả việc mở rộng của tầm quan trọng căn cứ hải quân Ngọc Lâm ( Yulin ) tại Tam Á trên đảo Hải Nam. Mặc dù cơ sở được mở rộng để chứa các tàu ngầm hiện đại của Hạm đội mở rộng Trung Quốc (bao gồm cả lớp Jin mới của tàu ngầm trang bị tên lửa đạn đạo, hoặc SSBNs, phát triển vào cuối những năm 2000), nó cũng có bến cảng mới cho các đội chiến đấu trên biển. Đối với nhiều nhà quan sát trong khu vực, mở rộng các cơ sở biểu trưng cho việc mở rộng lực lượng hải quân của Trung Quốc và trọng tâm của nó là đẩy sức mạnh hải quân đến khắp vùng biển Đông ( biển Nam Trung Hoa ). Chắc chắn, lý do chính cho việc mở rộng cơ sở hải quân Yulin là tăng cường răn đe hạt nhân của Trung Quốc (bằng cách phục vụ như một cơ sở cho SSBNs) và lập nơi trú ẩn cho đội tàu ngầm mở rộng (trong đó sẽ đóng một vai trò quan trọng trong một cuộc xung đột với Đài Loan). Tuy nhiên, nhất định, vị trí của căn cứ trên đảo Hải Nam, tỉnh cực nam của Trung Quốc là hình thái dạng chân ra trên phần bắc của Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ), việc mở rộng cũng đã chứng minh khả năng mới mà Trung Quốc có thể mang lại để chống đở trong những tranh cải ở Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ) và tiềm năng để triển khai lực lượng nhiều hơn tại khu vực trong tương lai.

Trên một quy mô nhỏ hơn nhiều, Việt Nam cũng đã hiện đại hóa không quân và lực lượng hải quân, phần lớn là mua vũ khí nước ngoài. Bởi những nỗ lực hiện đại của họ, chi tiêu quốc phòng tại Việt Nam tăng từ 1,9% GDP của nước này năm 2005 lên 2.5% trong năm 2009. Phát triển quan trọng nhất đã được quyết định trong tháng 12 / 2009, mua sáu tàu ngầm lớp Kilo từ Nga. Khi các tàu ngầm này được giao trong năm 2014, Việt Nam sẽ có một lực lượng tàu ngầm nhỏ nhưng tiên tiến. Việt Nam cũng đặt mua hai tàu khu trục lớp Gepard vào năm 2006 đã được chuyển giao vào năm 2011 và 37 máy bay chiến đấu từ năm 2004 và 2010, bao gồm cả 24 chiếc Su-30MKs tiên tiến. Kết hợp lại, những tiến bộ này cho thấy rằng phát triển quân sự của Việt Nam có nghĩa là để ngăn chặn Trung Quốc sử dụng lực lượng hải quân của mình trong tranh chấp ở Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ).

Tăng sự hiện diện Hải quân .

Phạm vi và nội dung của các buổi thao diển hiển thị sức mạnh hải quân Trung Quốc đang phát triển trong khu vực. Các KẾ HOẠCH đã tăng số lượng các buổi diển tập của lực lượng đặc nhiệm (biandui), của một số tàu hoạt động phối hợp và số lượng diển tập ở Biển Đông, bao gồm cả vùng biển tranh chấp. Nhiều người, nếu không phải tất cả, cho rằng những diển tập này phản ánh khả năng tăng trưởng của các kế hoạch đã được đề ra bởi các điều hướng hiện đại hóa vào cuối những năm 1990. Mặc dù căng thẳng gần đây đã không dẫn đến hành động quân sự, báo cáo của các buổi diển tập gia tăng trong khu vực lo ngại rằng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực để bảo vệ tuyên bố của mình - Đặc biệt là khi các diển tập này xảy ra trong vùng biển tranh cải..

Trong năm 2010, kế hoạch tiến hành một số hồ sơ cao cấp và công khai báo cáo các buổi diển tập trong Biển Đông ( Biển Nam Trung Hoa ). Tháng Ba năm 2010, Hạm đội Biển Bắc tiến hành một cuộc tập trận đường dài với một lực lượng đặc nhiệm gồm sáu tàu, trong đó có một tàu khu trục, ba tàu khu trục loại nhỏ, một tàu chở dầu và một tàu cứu hộ. Lực lượng đặc nhiệm đi từ Thanh Đảo qua eo biển Miyako và sau đó quay về phía nam, đi xuyên qua các kênh Bashi giữa Đài Loan và Philippines trước khi dừng lại ở Fiery Cross Reef trong Biển Đông ( Biển Nam Trung Quốc ). Tháng Bảy năm 2010, SSF tổ chức một buổi diển tập bắn đạn thật trên quy mô lớn tại một địa điểm bí mật ở Biển Đông ( Biển Nam Trung Quốc ) mà tàu tham gia đi từ tất cả ba hạm đội và bao gồm đội chiến đấu trên biển tiên tiến nhất của Trung Quốc. Trong tháng 11 năm 2010, SSF tổ chức một diển tập quy mô lớn, được đặt tên Jiaolong-2010, với sự tham gia của 1.800 lính thủy đánh bộ và bao gồm hơn 100 máy bay trực thăng vũ trang, tàu quét thủy lôi, tàu săn tàu ngầm, tàu đổ bộ, xe bọc thép lội nước và thuyền tấn công, cùng các bộ phận rời của vủ khí công nghệ chửa cháy (zhimiao) . Việc diển tập mô phỏng một cuộc đổ bộ và chọc thủng phòng tuyến trên bãi biển, mặc dù địa điểm không định rỏ. Những buổi tập này đã chứng minh tính năng mới mà Trung Quốc có khả năng có thể sử dụng để bảo vệ tuyên bố của mình trên Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ).

Trung Quốc có ngày càng trở nên quyết đoán hơn trong vùng biển Nam Trung Hoa ?

Các nhà phân tích thường thấy những căng thẳng ở Biển Đông như là bằng chứng của sự quyết đoán của Trung Quốc ngày càng tăng. Như Michael Swaine và tôi đã lập luận ở nơi khác, tuy nhiên, không thực sự rõ ràng rằng Trung Quốc đã trở nên tự tin hơn khi khẳng định các yêu sách của họ. Một mặt, Trung Quốc đã không thay đổi hoặc mở rộng nội dung của một trong hai tuyên bố chủ quyền hoặc quyền khiếu nại hàng hải trong Biển Đông.

Trong một tương phản với các sự kiện trong cuối thập niên 1980 và đầu những năm 1990, Trung Quốc cũng đã không sử dụng lực lượng vũ trang để giải quyết các yêu sách tranh chấp hiện hành trên các điều kiện riêng của mình. Mặt khác, Trung Quốc sở hữu khả năng lớn hơn để bảo vệ tuyên bố của mình và đã sẵn sàng sử dụng những khả năng này, đặc biệt là từ năm 2009. Các quốc gia khiếu nại khác cũng khẳng định yêu cầu của mình tích cực hơn. Trung Quốc xem hành động của nó như là phản ứng với sự quyết đoán của các quốc gia khác thách thức tuyên bố Trung Quốc.

Sự quyết đoán ngụ ý hành động mới và đơn phương thay đổi hiện trạng trong một vụ tranh chấp hay bằng một mối quan hệ.

" Không thực sự rõ ràng rằng Trung Quốc đã trở thành quyết đoán hơn. Trung Quốc đã không thay đổi hoặc mở rộng nội dung tuyên bố chủ quyền của mình hoặc tuyên bố các quyền hàng hải trong vùng biển Đông."

Mặc dù Trung Quốc khẳng định quyền hàng hải bao gồm hầu hết Biển Đông, nội dung của những tuyên bố không thay đổi. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) đã tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa kể từ năm 1951 và dựa trên những tuyên bố của chính phủ Trung Quốc trước đó.. Lần đầu tiên Trung Quốc bắt đầu tuyên bố quyền hàng hải cùng những nét đặc trưng này vào năm 1958 trong khủng hoảng ở Jinmen. Tuyên bố chủ quyền và quyền hàng hải của Trung Quốc sau đó đã được hệ thống hóa trong một loạt luật pháp về lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế được thông qua theo thứ tự bởi Hội đồng Nhân dân Quốc gia trong năm 1992 và 1998. Chủ quyền và quyền khiếu nại hàng hải của Trung Quốc đã được nhắc lại trong , tháng 5 năm 2009 , thông báo ngắn ngủi mà Trung Quốc đệ trình CLCS. Trung Quốc đệ trình thông báo này , tuy nhiên, không phải vì nó quyết định nhấn mạnh những tuyên bố của mình quyết đoán hơn mà vì các quốc gia khác đã đăng ký những tuyên bố chồng chéo với Trung Quốc. Như đã lưu ý trước đó, các quốc gia thỉnh cầu đã động viên mạnh mẽ để thách thức đệ trình của nhau trong chiều hướng bảo vệ yêu sách riêng của họ

Một số nhà quan sát cho rằng Trung Quốc mở rộng yêu sách của nó bằng cách bao gồm một bản đồ chử U chín đoạn trong đệ trình năm 2009. Đường chử U và những bao gồm của nó trên bản đồ Trung Quốc, tuy nhiên, không phải là mới. Đường chử U đầu tiên xuất hiện trong một tập bản đồ được xuất bản bởi Cộng hòa Trung Quốc vào năm 1947 và được chính thức công bố vào năm 1948. Đồng thời, tuy nhiên, đường chử U không được định nghĩa chính thức, và ngày nay nó vẫn còn mơ hồ. Thông báo được đưa ra với bản đồ, ví dụ, không xác định đường đứt khúc chử U hoặc thậm chí nói đến nó. Những hòn đảo tranh chấp chỉ là các tính năng địa lý được ghi trong chú thích và tên trên bản đồ . Ngoài ra, bản đồ nộp cho CLCS là bản đồ đầu tiên của khu vực mà Trung Quốc đệ trình cho U.N., không có tài liệu nào được đệ trình trước đó về khiếu nại hàng hải bao gồm bất kỳ một bản đồ nào. Nếu Trung Quốc đệ trình một bản đồ với luật về lãnh hải của họ hồi 1992, ví dụ, nó sẽ bao gồm đường đứt khúc chín đoạn chử U, bởi đường chử U đã xuất hiện trên bản đồ chính thức của Trung Quốc vào thời điểm đó. Cuối cùng, như Greg Austin đã lưu ý, việc sử dụng những đường lằn được thêm vào trên bản đồ Trung Quốc đã ám chỉ " ranh giới không giới hạn hoặc không rỏ ràng ". Phù hợp với quan điểm này, Trung Quốc đã loại bỏ hai dấu gạch ngang trong Vịnh Bắc Bộ của bản gốc năm 1953, cho thấy đường đứt khúc tự nó có thể
thay đổi.

Trong tháng 4 năm 2010, những báo cáo lại đánh tiếng rằng Trung Quốc đã liệt biển Đông vào loại như là một "lợi ích cốt lõi" ngang tầm với Đài Loan và Tây Tạng. Tuy nhiên, chưa có lãnh đạo cao cấp Trung Quốc nào đã từng công khai mô tả Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ) là một " lợi ích cốt lõi ", mặc dù nó có thể đã được thảo luận trong một hoặc nhiều cuộc họp riêng giữa các nhân sự Mỹ và Trung Quốc. Ngược lại, lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc thường xuyên mô tả Tây Tạng và Đài Loan là " lợi ích cốt lõi ". Ngoại lệ duy nhất xuất hiện là một bài viết tiếng Anh được công bố trên trang web Tin tức Tân Hoa Xã hồi tháng Tám 2011, trong đó nói rằng Trung Quốc "đã có chủ quyền không thể chối cãi đối với những hòn đảo ở Biển Đông [Nam Trung Quốc] và các vùng biển xung quanh , đó là một phần lợi ích cốt lõi của Trung Quốc ". Trong bối cảnh này, đề tài có liên quan nhất đến chủ quyền lãnh thổ đối với hải đảo và lảnh hải 12 hải lý (khoảng cách hàng hải mà các quốc gia thực hiện chủ quyền), là Biển Đông hoặc các vùng biển được bao bọc bởi đường đứt khúc chín đoạn chử U không hội đủ điều kiện. Cho đến nay, không có nhà lãnh đạo cấp cao Trung Quốc nào lặp đi lặp lại tuyên bố này.

Như đã thảo luận trước đây, Trung Quốc đã ngày càng nhiều có thể và sẵn sàng để thực thi tuyên bố quyền hàng hải của mình trong vùng biển Đông. Trong riêng tư, việc mở rộng đội tàu của Quản lý Cục Thuỷ sản và MSF trong Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ) cho phép Trung Quốc đáp trả với những gì Bắc Kinh nhận thức là những thách thức phức tạp đến với tuyên bố của mình (xem Bảng Một). Những thủ đoạn ngoại giao với các công ty dầu khí nước ngoài trong năm 2006 và 2007, ví dụ, là một đáp trả sự gia tăng các hoạt động thăm dò của Việt Nam trong vùng biển Trung Quốc tuyên bố chủ quyền . Tương tự như vậy, sự gia tăng mạnh mẽ trong việc bắt giữ tàu thuyền đánh cá Việt Nam trong năm 2009 trùng hợp với gia tăng áp lực đối với tàu thuyền trong vùng biển chung quanh quần đảo Hoàng Sa, thường ở trong các vùng lãnh hải mà Trung Quốc tuyên bố chung quanh quần đảo này.

Một trong những hành động của Trung Quốc gây chú ý là mới và đơn phương liên quan đến việc quấy rối các tàu khảo sát địa chấn và can thiệp vào các hoạt động của họ, đặc biệt là sự cố cắt cáp tháng Năm 2011. Căn cứ vào số tàu Trung Quốc từ MSF được tham gia và nội dung các phản ứng của MFA, điều này dường như đã là một tín hiệu rõ ràng cho thấy nỗ lực phản đối của Trung Quốc đối với các hoạt động của Việt Nam. Một sự gia tăng tần suất các sự cố tương tự trong tương lai sẽ cho thấy sự quyết đoán của Trung Quốc nhiều hơn ở Biển Đông..

Hơn nữa, Trung Quốc đã chọn không thực hiện các biện pháp khiêu khích khác. Về mặt ngoại giao , các nhà lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc đã không công khai viếng thăm bất kỳ nơi nào trên quần đảo Trường Sa. Về mặt quân sự, Trung Quốc đã không tích cực sử dụng lực lượng hải quân để thực thi tuyên bố quyền hàng hải của mình và cũng không tìm cách sử dụng lực lượng vũ trang. Thay vào đó, Trung Quốc đã dựa vào cơ quan thực thi luật dân sự về quyền hàng hải , đặc biệt là Cục quản lý thuỷ sản và MSF. Dựa trên các cơ quan dân sự cho thấy đó là một lựa chọn có chủ ý và ám chỉ rằng Trung Quốc đã tìm cách hạn chế khả năng leo thang thông qua nó lựa chọn như thế nào để khẳng định và thực thi khẳng định quyền hàng hải. Một sự thay đổi trong việc sử dụng lực lượng hải quân - và không có cơ quan luật thực thi - chống lại thường dân từ các quốc gia tuyên bố khác sẽ cho thấy sự quyết đoán của Trung Quốc lớn hơn.

Tóm lại, Trung Quốc đã không biết tự khẳng định mình trong cuộc tranh cải này như nhận định của nhiều nhà quan sát.. Trung Quốc đã không thay đổi nội dung, phạm vi tuyên bố của mình, mặc cho sự mơ hồ vẫn tiếp tục bao quanh ý nghĩa của đường đứt khúc chín đoạn hình chử U. Nhìn chung, ngoại trừ các sự cố cắt cáp, Trung Quốc đã thường phản ứng để quan sát các thách thức đối với những yêu sách bảo thủ của họ và lựa chọn làm như vậy thông qua cơ quan thực thi luật hàng hải dân sự hơn là thông qua các lực lượng quân sự của mình.

BẢNG I : QUAN SÁT NHỮNG THÁCH THỨC YÊU SÁCH CỦA TRUNG QUỐC.

_ 2006-2007 : Việt Nam tăng cường các dự án thăm dò dầu khí ngoài khơi trong vùng biển Trung Quốc tuyên bố chủ quyền.
_ Tháng 1 năm 2007 : Hội nghị Trung ương lần thứ tư của Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua một nghị quyết phát triển quốc gia "Chiến lược hàng hải hướng tới năm 2020". Hình dung rằng các ngành công nghiệp hàng hải, đặc biệt là đánh bắt cá và dầu khí, sẽ chiếm 55% GDP trong năm 2020, tăng từ 48% năm 2005.
_ Tháng 4 năm 2007 : Việt Nam nâng cao đảo Trường Sa đến cấp độ của một "thị trấn thuộc huyện Trường Sa.."
_ Tháng 11 năm 2007 : Các cơ quan lập pháp Philippines bắt đầu tranh luận về luật đường cơ sở thuộc quốc gia quần đảo, trong đó bao gồm 53 tính năng của quần đảo Trường Sa như là một phần của quần đảo Philippines.
_ Tháng 6 năm 2008 : thỏa thuận chung năm 2004 khảo sát địa chấn giửa Việt Nam và Philippines hết hạn, làm hỏng hy vọng của Trung Quốc "phát triển chung" (hướng dẫn của Đặng Tiểu Bình để quản lý những tranh chấp này ).
_Tháng 2 năm 2009 : Các cơ quan lập pháp Philippines thông qua luật đường cơ sở dành cho quốc gia quần đảo, trong đó bao gồm tuyên bố một số thuộc quần đảo Trường Sa. Dự luật này được ký thành luật tháng 3 năm 2009.
_ Tháng Ba năm 2009 : Thủ tướng Malaysia, Badawi , thực hiện một chuyến viếng thăm công khai đến đảo đá Swallow Reef, một tính năng trong Biển Đông bị Malaysia chiếm đóng , để chứng minh yêu sách của Malaysia.
_Tháng 5 năm 2009 : Việt Nam và Malaysia nộp tuyên bố đến Liên Hợp Quốc về thềm lục địa mở rộng trong Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ).
_ Tháng 11 năm 2009 : Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức một hội nghị khoa học quốc tế lớn về Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa) để khởi động chiến dịch "quốc tế hóa" các tranh chấp.
_ Tháng 12 năm 2009 : Số lượng tàu đánh cá Việt Nam trú bảo tại quần đảo Hoàng Sa, kiểm soát bởi Trung Quốc từ năm 1974, tăng lên (nhiều người bị Trung Quốc giam giữ ).
_ Tháng 1 năm 2010 : Việt Nam đảm nhiệm chủ tịch luân phiên ASEAN và bắt đầu một nỗ lực công khai để xây dựng sự đồng thuận trong ASEAN về Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa).
_ Tháng Ba năm 2010 : Thủ tướng Chính phủ Việt Nam thực hiện một chuyến thăm công khai đến một trong những hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa do Việt Nam kiểm soát để chứng minh tuyên bố của Việt Nam.
_ Tháng 4 năm 2010 : Khoảng 20 tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam và tàu bảo vệ bờ biển bao vây một tàu tuần tra của chính quyền Trung Quốc.
_ Tháng 7 năm 2010 : Hoa Kỳ và 11 quốc gia khác bày tỏ lo ngại về tình hình ở Biển Đông trong cuộc họp hàng năm của Diễn đàn khu vực ASEAN.
_ Tháng 11 năm 2010 : Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức một hội nghị khoa học quốc tế lần thứ hai về Biển Đông.
_ Tháng Hai 2011 : Philippines bắt đầu một cuộc khảo sát địa chấn trong vùng biển gần Reed Bank.
_ Tháng Ba 2011 : Việt Nam bắt đầu khảo sát địa chấn ở vùng biển Trung Quốc tuyên bố chủ quyền .
_ Tháng Tư 2011 : Philippines nộp công hàm đến Liên Hiệp Quốc phản đối tuyên bố của Trung Quốc đã được gởi đến U.N từ tháng năm 2009.
_ Tháng Sáu 2011 : Năm nhà lập pháp từ Philippines ghé thăm đảo Thitu. Việt Nam tổ chức tập trận hải quân bắn đạn thật ở Biển Đông....

( còn tiếp )

1    2    3    4    5

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.