Hợp tác từ Sức mạnh. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Biển Đông.

Hoa Kỳ, Trung Quốc và Biển Đông.

M. Taylor Fravel. J A N U A R Y / 2 0 1 2 .Center for New Amemican Security.

PHẦN II. CHƯƠNG II.
AN NINH HÀNG HẢI TẠI BIỂN ĐÔNG VÀ CẠNH TRANH VỀ QUYỀN HÀNG HẢI.

BHM Lược dịch.

Tự do hàng hải.

Khía cạnh thứ ba của an ninh hàng hải liên quan đến việc tự do hàng hải, bao gồm cả an ninh thông tin liên lạc tuyến biển đi qua những vùng biển này. Một số tuyến đường biển bận rộn nhất trên thế giới đi qua Biển Đông ( Biển Nam Trung Quốc ).

Tự do hàng hải ảnh hưởng đến lợi ích của tất cả các quốc gia tham gia vận chuyển đường biển , bao gồm cả Hoa Kỳ, không chỉ các quốc gia tuyên bố chủ quyền lãnh thổ hoặc quyền hàng hải như đã nói ở trên. Cuộc đối đầu liên quan đến những người làm thương mại và cơ quan thực thi luật hàng hải dân dụng Trung Quốc từ năm 2009 đến 2011, lo ngại về tự do lưu thông hàng hải trong vùng biển này. Ngoài ra, Trung Quốc (cùng với các cường quốc hàng hải đang phát triển khác, chẳng hạn như Brazil và Ấn Độ) cho rằng quyền ven biển có thể hạn chế các hoạt động quân sự nước ngoài trong vùng đặc quyền kinh tế ( EEZ) , dẩu cho hầu hết các nước khác đều không đồng ý. Mặc dù Trung Quốc đã không tìm cách áp dụng giải thích này cho sự tranh cải quyền hàng hải ở Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa), nó có thể làm như vậy trong tương lai. Cho đến nay, những nỗ lực của Trung Quốc để thực thi các giới hạn về tự do hàng hải đã xảy ra ở các vùng đặc quyền kinh tế ngoài khơi bờ biển của nó. Tháng Năm, 2009, xảy ra vụ đối đầu với tàu USNS Impeccable, ví dụ, cách khoảng 75 dặm về phía đông nam đảo Hải nam.

Hiện đại hóa Hải quân.

Quan tâm an ninh hàng hải thứ tư liên quan đến hậu quả của việc hiện đại hóa hải quân của các quốc gia đang phát triển trong khu vực. Các tranh chấp ở Biển Đông tạo ra động lực mạnh mẽ cho các quốc gia tăng cường khả năng hải quân của họ và bố trí binh lính trên các đảo, khuynh hướng có thể tăng khả năng lực lượng vũ trang có thể được sử dụng ở Biển Đông. Ngoài ra, các quốc gia duyên hải ngày càng dựa vào biển bởi thương mại và nguồn lực hàng hải, lợi ích hàng hải của họ đã mở rộng. Việt Nam, ví dụ, dự định sẽ tăng tỷ lệ đóng góp mà kinh tế hàng hải góp phần vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) từ 48% năm 2005 đến 55% trong 2020. Tương tự như vậy, phần lớn các mậu dịch của Trung Quốc, đặc biệt là nguồn cung cấp năng lượng, di chuyển bằng đường biển. Để bảo vệ những lợi ích mới, cũng như bảo vệ chủ quyền của họ và các tuyên bố khác, các quốc gia duyên hải đang tích cực hiện đại hóa hải quân của họ và các lực lượng vũ trang khác. Những thay đổi căn nguyên trong sự cân bằng quyền lực và sự phát triển các nền tảng với tầm đạn xa hơn và tính nhẩn nại lớn hơn - có thể trở nên ngày càng cạnh tranh và bất ổn.

Cạnh tranh trên các lợi ích an ninh hàng hải khác nhau này có thể làm tăng sự bất ổn trong khu vực.Trong bốn loại, tranh chấp về chủ quyền lảnh thổ và quyền hàng hải có thể dễ dàng leo thang nhất để đi đến việc sử dụng vũ lực quân sự. Hai cuộc đụng độ hải quân quan trọng đã xảy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam, một trong năm 1974 trên Nhóm đảo Lưởi Liềm trong quần đảo Hoàng Sa và một vào năm 1988 trên dảy đảo đá Johnson Reef ( Gạc Ma ) trong quần đảo Trường Sa. Khi các cuộc tranh cải về quyền hàng hải tăng lên, tỷ lệ đánh cược các cuộc đụng độ vũ trang giữa các lực lượng hải quân của các nước tuyên bố chủ quyền gia tăng, những cuộc đụng độ như vậy sẽ làm tăng bất ổn và đặt vấn đề về tự do hàng hải trong những vùng biển này cho tất cả các quốc gia đi biển.

Cạnh tranh đang phát triển trong quyền hàng hải.

Xung đột về chủ quyền lãnh thổ các hòn đảo tranh chấp và các rạn san hô là một đặc tính kéo dài của an ninh hàng hải ở Biển Đông. Tuy nhiên, căng thẳng khu vực kể từ năm 2006 chủ yếu liên quan đến tuyên bố cạnh tranh quyền hàng hải và thẩm quyền đối với tài nguyên. Các diễn viên chính trong các cuộc cạnh tranh này bao gồm các nhà ngoại giao, người làm ăn kinh tế, thương mại như ngư dân, các công ty dầu khí và cơ quan thực thi luật hàng hải dân sự quốc gia . Sức mạnh quân sự và lực lượng hải quân đã đóng một vai trò thứ cấp, khi các tranh cải quyền hàng hải vẫn chưa trở nên quân sự hóa.

Thông tin đáng tin cậy về sự cạnh tranh quyền hàng hải là khó tìm. Những ghi nhận không chuyên trách các sự kiện và những xu hướng có thể được thu thập từ báo cáo của các phương tiện truyền thông, nhưng kết luận rõ ràng rất khó để ủng hộ. Hầu hết các thông tin đến từ các phương tiện truyền thông ở các nước có tranh chấp đều khác nhau. Ở Trung Quốc và Việt Nam, các phương tiện truyền thông trực tiếp hoặc gián tiếp có quan hệ với nhà nước.

Tất cả các quốc gia cũng tích cực tìm cách định hướng ý kiến công chúng và ý kiến ​​của quốc tế. Các phương tiện truyền thông, cho dù của nhà nước hay không, đóng một vai trò quan trọng trong quá trình này. Vì những lý do này, những báo cáo cá lẻ những sự kiện có thể khó khăn để xác minh . Ngoài ra, không phải tất cả các cuộc đối đầu giữa các bên tranh chấp đều được báo cáo, làm khó khăn việc theo dõi những động thái thay đổi theo thời gian. Mặc dù Việt Nam và Philippines tỏ ra đã tăng thêm các báo cáo của họ về những sự kiện trong vùng biển Đông ( biển Nam Trung Hoa ) từ năm 2009, Trung Quốc thì không. Những cuộc đối đầu liên quan đến tàu Trung Quốc, đặc biệt là Ngư dân Trung Quốc, hầu như không bao giờ được tường trình trong các phương tiện truyền thông Trung Quốc, rất có thể bởi vì chính phủ muốn tránh những lời chỉ trích rằng họ không làm đủ để bảo vệ công dân của mình.

Như tài liệu dưới đây, một loạt những tình trạng căng thẳng hiện nay chưa đạt đến mức độ bất ổn mà khu vực đã chứng kiến ​​từ năm 1988 đến 1995. Lúc ấy, lực lượng hải quân đóng một vai trò nổi bật. Một xung đột vũ trang chính thức, trong đó 74 người Việt Nam đã thiệt mạng, xảy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam vào tháng ba năm 1988. Căng thẳng bắt đầu lắng xuống sau khi Ngoại trưởng Trung Quốc Qian Qichen tham dự Diễn đàn khu vực ASEAN năm 1995 và cam kết rằng Trung Quốc sẽ tìm cách để giải quyết các tranh chấp khác nhau theo luật pháp quốc tế, bao gồm cả Công ước về Luật biển của Liên hợp quốc.

Phương diện ngoại giao.

Tranh chấp ngoại giao đã gây ra những căng thẳng gần đây nhất về các quyền hàng hải ở Biển Đông ( Biển Nam Trung Quốc ). Vào giữa những năm 2000, Việt Nam đã gia tăng nỗ lực phát triển ngành công nghiệp dầu khí ngoài khơi của họ, cộng tác với các công ty dầu mỏ nước ngoài. Giửa năm 2006 và năm 2007, Trung Quốc phản ứng bằng cách phát hành 18 thông báo phản đối ngoại giao đến các công ty dầu mỏ nước ngoài tham gia vào những dự án thăm dò và phát triển này. Hầu hết những biện pháp này đã thách thức tính hợp pháp các dự án thăm dò của Việt Nam. Trong tháng năm 2006, ví dụ, công ty dầu mỏ quốc gia Ấn Độ, Công ty dầu và khí đốt tự nhiên Videsh, đã ký kết hợp đồng phân chia sản phẩm với Petro Việt Nam ở các lô trong vịnh Phú Khánh . Trung Quốc tuyên bố rằng dự án của ONGC đã rơi vào một khu vực tranh chấp ở Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ) và do đó là bất hợp pháp. Bản thông báo phản đối của Trung quốc đề nghị rằng chỉ có các nước đang tranh chấp mới có thể được tham gia vào những hoạt động phát triển như vậy. Trong tháng 7 năm 2008, khi Việt Nam tiếp tục nỗ lực phát triển , những báo cáo lại xuất hiện rằng Trung Quốc đã bắt đầu đe dọa trực tiếp công ty dầu khí nước ngoài đầu tư tại Việt Nam. Theo một báo cáo trong South China Morning Post, các nhà ngoại giao Trung Quốc ở Washington đã " nhiều lần phản đối bằng lời đến giám đốc điều hành ExxonMobil ... và cảnh báo họ rằng lợi ích kinh doanh trong tương lai của họ trên đại lục có thể có nguy cơ, theo nguồn tin thân cận các công ty Mỹ ".

Căng thẳng Ngoại giao về quyền hàng hải gia tăng trong những tuần lễ trước tháng 5 năm 2009, thời hạn nộp hồ sơ đến Ủy ban Giới hạn thềm lục địa của Liên hiệp quốc (CLCS). Ủy ban đánh giá và tuyên bố các quốc gia đủ điều kiện có quyền mở rộng thềm lục địa vượt quá 200 hải lý . Nếu một tranh chấp lãnh thổ hoặc hàng hải tồn tại, tuy nhiên, khi đó điều lệ của ủy ban tuyên bố " không được xem xét và hội đủ điều kiện để đệ trình được thực hiện bởi bất cứ quốc gia nào có liên quan trong vụ tranh chấp ". Kết quả là, tất cả các bên tranh chấp trong Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ) có động cơ mạnh mẽ để thách thức các đệ trình thềm lục địa ở những nơi mà chủ quyền hoặc khẳng định quyền hàng hải chồng lên nhau. Theo đó, Trung Quốc và Philippines, cả hai phản đối đệ trình của Việt Nam và đệ trình chung Việt Nam-Malaysia . Tất cả các bên tranh chấp sau đó ban hành khiếu nại và phản đối khiếu nại.

Mặc dù thời hạn đăng ký, tháng năm 2009, đã được thành lập 10 năm trước đó, điều đáng nói là việc tiếp cận với thời điểm ấy đã gia tăng cạnh tranh về quyền hàng hải ở Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ). Bằng việc gửi tuyên bố đến CLCS, nhiều quốc gia trong khu vực chính thức mở rộng quyền hàng hải của họ vượt quá vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ bờ biển của họ, do đó tăng cường độ tranh chấp về quyền hàng hải. Trước đây, các nước này có hoặc không tuyên bố rằng họ sẽ đòi hỏi quyền thềm lục địa mở rộng hoặc mô tả rõ ràng chiều dài của thềm lục địa mà họ tuyên bố. Ngoài ra, trong ghi chú nộp cho ủy ban, các quốc gia không chỉ tranh nhau khẳng định quyền hàng hải mà còn thên những tuyên bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cuối cùng, công hàm ngoại giao đầu tiên của Trung Quốc phản đối bản đăng ký của Việt Nam và Malaysia, bao gồm một bản đồ của khu vực có mô tả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng với đường chín đoạn chử U. Mặc dù công hàm của Trung Quốc không nói đến đường chử U, Việt Nam đã xem bản đồ ấy như là một yêu sách bành trướng của Trung Quốc. Ý nghĩa của bản đồ này được thảo luận dưới đây.....

( còn tiếp )
1    2    3    4    5

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.