Khuấy động Biển Đông I, II.

Để củng cố yêu sách của họ, các nước trong khu vực đã tranh giành chiếm càng nhiều tính năng càng tốt. Điều này đã dẫn Trung Quốc đi vào xung đột với Nam Việt Nam trong năm 1974 và một Việt Nam thống nhất vào năm 1988,...


INTERNATIONAL CRISIS GROUP .Bắc Kinh / Brussels, 23 tháng 4 năm 2012.
Trích từ STIRRING UP THE SOUTH CHINA SEA (I) của Crisis GROUP

Trần H Sa Lược dịch.

I. Giới thiệu.

Một điểm nóng chủ yếu cho cuộc xung đột tiềm năng giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á cũng như Mỹ, Biển Đông ( biển Nam Trung Hoa ) vẫn còn là một khu vực có tầm quan trọng to lớn đối với sự ổn định, hòa bình và thịnh vượng của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trung Quốc (cả hai nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc và Cộng hòa Trung Hoa ở Đài Loan), Việt Nam, Philippines và các nước khác tất cả đều có tuyên bố một phần nào đó của biển. Trong khi các khu vực dọc theo bờ biển của các nước không phải là trọng tâm của vụ tranh chấp này, những tuyên bố khác nhau chồng chéo lên nhau đáng kể ở ngoài khơi trong các khu vực Trường Sa và Hoàng Sa, và trong một số rạn san hô và khu vực hàng hải. Ngoài ra với một mong muốn bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, nhiều sự chú ý trên biển Đông ( biển Nam Trung Hoa ) bắt nguồn từ tài nguyên thiên nhiên phong phú và vị trí chiến lược của khu vực.


Vùng biển chiếm khoảng 10% đánh bắt thủy sản hàng năm trên toàn cầu, làm cho nó cực kỳ quan trọng đối với ngành công nghiệp đánh bắt cá của các nước lân cận. Khu vực như một toàn thể cũng giàu cả dầu và khí đốt tự nhiên, qua đó đã dẫn đến suy đoán rằng các vùng lãnh thổ tranh chấp có thể nắm giử các nguồn tài nguyên năng lượng tiềm năng đáng kể. Nguyên nhân của những căng thẳng, tuy nhiên, số lượng ước đoán chính thức hydrocarbon trong các khu vực như quần đảo Trường Sa vẫn chưa được chứng minh.

Biển Đông ( biển Nam Trung Hoa ) chiếm một vị trí địa chiến lược quan trọng trong vận chuyển quốc tế. Phần lớn các thùng hàng năng lượng và nguyên vật liệu thô đi qua eo biển Malacca tiếp tục thông qua Biển Đông đến với các nước như Trung Quốc và Nhật Bản. Hải quân Trung Quốc (PLAN) đã công nhận tầm quan trọng chiến lược của biển, và đã có những bước tăng cường khả năng của mình trong khu vực. Mỹ cũng có quan tâm đến bảo vệ các tuyến đường biển chạy qua khu vực, như xem xét mở và ổn định hàng hải chung là thiết yếu đối với thương mại và thịnh vượng quốc tế .

Trung Quốc, Việt Nam và Philippines đã thực hiện những tuyên bố chủ quyền quan trọng và mạnh mẽ nhất ở Biển Đông. Tuyên bố trước đây đối với quần đảo Trường Sa có thể dẩn đến hậu quả xa hơn nếu nó có ý định để yêu sách đòi hỏi đầy đủ vùng đặc quyền kinh tế (sau đây gọi là EEZs) chung quanh những hải đảo, mà sau đó sẽ chồng chéo lên nhau đáng kể với tuyên bố chủ quyền EEZs của Philippines , Brunei, Malaysia và Việt Nam. Trong khi Bắc Kinh có thể tìm cách để theo đuổi mục tiêu này, nó cũng có thể nghĩ đến việc đòi hỏi "quyền lịch sử" các bộ phận khác của biển trong đường đứt khúc chín đoạn [sau đây gọi là đường lưỡi bò]. Sự không chắc chắn là những yêu cầu pháp lý của Trung Quốc, và những cố gắng rỏ ràng để thực thi chủ quyền ở khu vực quá xa với bờ biển của nó để được là một phần EEZs của nó, đã đặt nó trái ngược với tuyên bố chủ quyền của nước khác cho rằng nhiều trong số những khu vực này đến nay vẫn là gần gũi hơn với các bờ biển của các tuyên bố chủ quyền khác.

Để củng cố yêu sách của họ, các nước trong khu vực đã tranh giành chiếm càng nhiều tính năng càng tốt. Điều này đã dẫn Trung Quốc đi vào xung đột với Nam Việt Nam trong năm 1974 và một Việt Nam thống nhất vào năm 1988, trong khi lực lượng hàng hải của một số nước đã thường xuyên bị sách nhiễu và tàu cá nước ngoài bị giam giữ. Hiện nay, Bắc Kinh kiểm soát toàn bộ Hoàng Sa và mười lăm rạn san hô cùng bãi cát ngầm trong quần đảo Trường Sa. Tất cả các tính năng tranh chấp khác được kiểm soát bởi các yêu sách của các nước khác. Mối quan tâm khu vực dẫn đến việc ký kết Tuyên bố cách ứng xử của các bên ở Biển Đông [DOC] của Trung Quốc và mười nước ASEAN vào năm 2002. Trong khi điều này là một bước tích cực theo hướng ổn định, chỉ trong năm 2011 kèm theo Hướng dẫn cho việc Thực hiện DOC đã được thoả thuận.

Cuộc xung đột tiềm ẩn dù sao vẫn còn, ít nhất là một phần vì tuyên bố không ràng buộc về mặt pháp lý và nó đã không hoàn thành tiến bộ đã hứa trong giải quyết tranh chấp. Trong những năm gần đây, số lượng các sự cố giữa các lực lượng hải quân đã tăng lên đáng kể, và đã bao gồm các căng thẳng tám lạng nửa cân, chẳng hạn như giữa Trung Quốc và Philippines tại Scarborough Reef vào tháng Tư năm 2012. Điều này đã dẫn đến mối lo ngại rằng Trung Quốc, Việt Nam và Philippines đang phát triển quyết đoán hơn về vấn đề này, gây nguy hiểm cho ổn định khu vực.

Báo cáo này được dựa trên các cuộc phỏng vấn được tiến hành tại Bắc Kinh, Quảng Tây, Hải Nam, Hạ Môn, Hà Nội, Jakarta, Kuala Lum-pur, Manila, Singapore, Đài Bắc, Tokyo, và Washington DC. Nhóm khủng hoảng đã nói chuyện với một loạt các cá nhân, bao gồm cả cán bộ, các học giả, các nhà ngoại giao, nhà báo và trong nội bộ từ các ngành công nghiệp đánh cá, du lịch và dầu, những người trong đó yêu cầu được giấu tên do bản chất nhạy cảm của đối tượng. Báo cáo này tập trung vào người chơi chủ chốt trong nước của Trung Quốc và lợi ích của họ. Mặc dù những năng động của khu vực là một nhân tố chính trong chính sách của Trung Quốc trên Biển Đông, báo cáo này không bao gồm các cuộc thảo luận về các vấn đề này, chúng sẽ là chủ đề của một bài báo riêng biệt.

II.Vùng biển gặp khó khăn: Căng thẳng từ năm 2009.

<A) Đường Lưỡi Bò

Tuyên bố lãnh thổ mơ hồ của Trung Quốc và từ chối làm cho chúng dể hiểu một cách công khai đã gây ra quan ngại trong khu vực rằng nó đang chiếm lấy một tư thế quả quyết hơn ở Biển Đông, đặc biệt khi kết hợp với phát triển xây dựng hải quân và những hành động hung hăng của cơ quan thi hành pháp luật hàng hải của nó.Vào tháng Năm, 2009, Việt Nam và Malaysia trình lên Ủy ban của Liên Hiệp Quốc về các giới hạn Thềm lục địa, tìm kiếm mở rộng thềm lục địa của họ trong biển Đông vượt ra ngoài 200 hải lý thông thường (nm). Đáp lại, Trung Quốc gửi một Lưu ý Verbale ( chưa đủ nghiêm túc để gọi là công hàm ...BHM ) nói rằng yêu cầu này vi phạm nghiêm trọng quyền của nó. Cùng với lưu ý này, nó bao gồm một bản đồ gồm có đường lưỡi bò bao gồm phần lớn Biển Đông, bao gồm cả Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa.

Trung Quốc có một tuyên bố lịch sử đối với các đảo và các tính năng địa lý khác trong biển Đông dựa trên khảo sát của các cuộc thám hiểm, hoạt động đánh bắt cá, và tuần tra hải quân kể từ ít nhất là thế kỷ 15. Những người chuyên vẻ bản đồ hiện đại của Trung Quốc đã bao gồm khu vực được hiển thị đường lưỡi bò trong các bản đồ lãnh thổ Trung Quốc kể từ khi sớm nhất là 1914. Các khu vực được bao gồm trong một bản đồ chính thức vẻ trong năm 1947 bởi Cộng hòa Trung Quốc dưới thời chính phủ Quốc Dân Đảng, và đường lưỡi bò đã tiếp tục được bao gồm trong các bản đồ chính thức được xuất bản bởi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trong khi Trung Quốc có một số biện minh cho những yêu sách đòi hỏi lịch sử này, nó đã phê chuẩn Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) năm 1996, qua đó buộc các nước từ bỏ phần lớn những tuyên bố hàng hải lịch sử của họ trong các khu vực hàng hải được cấp theo quy ước. Tuyên bố chủ quyền hải đảo và các tính năng địa lý khác không bị ảnh hưởng bởi hiệp ước, nhưng bất kỳ tuyên bố chủ quyền nào đối với khu vực hàng hải, phải nằm trong các vùng lãnh hải hoặc vùng đặc quyền kinh tế ( EEZs ) được trao cho những tính năng bởi UNCLOS.

Trung Quốc nộp bản đồ với đường lưỡi bò cho Liên Hợp Quốc tháng 5 năm 2009 và sử dụng các thuật ngữ "vùng biển có liên quan" nêu lên mối quan tâm giữa các nước tuyên bố khác rằng, Trung Quốc có thể yêu sách đòi hỏi "vùng nước lịch sử" hoặc "quyền lịch sử" đối với tài nguyên trong đường lưỡi bò, mặc dù có phê chuẩn của nó trong UNCLOS. Bộ Ngoại giao bắt đầu chỉ dẩn tường tận cho các đại sứ quán sau những cánh cửa khép kín rằng tuyên bố ( yêu sách đòi hỏi ) của nó là chủ yếu đối với các tính năng đất trong đường lưỡi bò và các EEZs mà chúng sẽ tạo ra. Trong một tuyên bố ngày 29 tháng hai 2012, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hong Lei cũng phân biệt giữa "tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ của các rạn san hô và các hòn đảo của quần đảo Trường Sa", và tranh chấp về phân định hàng hải, ngụ ý rằng tuyên bố của Trung Quốc chủ yếu là các tính năng đảo và lãnh hải , EEZs và thềm lục địa của họ. Tuy nhiên, hành động gần đây của tàu thực thi pháp luật Trung quốc chỉ ra Bắc Kinh đang cố gắng thực thi quyền tài phán của mình trong tất cả các vùng biển bên trong đường lưỡi bò, trong đó, thêm một điều "thiếu" về việc làm rõ pháp luật, đã làm trầm trọng thêm mối quan tâm khu vực và thúc đẩy các nước phản đối một cách kịch liệt lối tiếp cận hung hăng phá hoại luật pháp quốc tế của Trung quốc..

Bắc Kinh đã bị ngạc nhiên bởi phản ứng của khu vực đối với việc nó sử dụng đường lưỡi bò. Từ quan điểm của nó, nó tự cho quyền chắc chắn được hưởng lãnh thổ như là kết quả của một chiến thắng trong chiến tranh thế giới thứ II. Hơn nữa, không có quốc gia tuyên bố nào khác đã công khai thách thức đường chữ U ( đường lưỡi bò ) khi nó được sản xuất vào năm 1947. Một số người ở Trung Quốc xem Biển Đông là một khu vực tự nhiên của ảnh hưởng, họ làm một so sánh với học thuyết Monroe, nơi họ tin rằng quan điểm của Mỹ đối với các quốc gia Caribbean và Châu Mỹ La Tinh như là một tài sản riêng : "Sân sau". Tuy nhiên, một số học giả Trung Quốc công nhận rằng đường lưỡi bò là khó khăn để biện minh theo định nghĩa của UNCLOS về lãnh hải.

B. Lợi ích cốt lõi?

Đầu năm 2010, sự suy đoán phát sinh rằng Trung Quốc đã định nghĩa tranh chấp Biển Đông là một trong những "lợi ích cốt lõi" của nó, một thuật ngữ truyền thống dành cho các vấn đề chủ quyền quốc gia như Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương, ở đó Trung Quốc không sẳn sàng làm tổn thương vị trí của nó và sẽ phải xử dụng đến vũ lực, nếu cần thiết. Báo cáo lần đầu tiên gợi ý rằng các quan chức Trung Quốc sử dụng biểu hiện này trong một cuộc họp riêng với các quan chức Mỹ tháng 3 năm 2010, và sau đó trích dẫn Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton khi tuyên bố rằng lãnh đạo cao cấp Trung Quốc chịu trách nhiệm về chính sách đối ngoại đã lặp lại tuyên bố này vào tháng 5 năm 2010. Tuy nhiên, quan chức cao cấp khác của Mỹ lúc ấy đã khẳng định rằng thuật ngữ "ưu tiên quốc gia" chứ không phải là "lợi ích cốt lõi" đã được sử dụng. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc hầu như nhất trí đồng ý rằng chính phủ đã không thực hiện bất kỳ quyết định chính sách có ý thức nào xếp hạng Biển Đông là một lợi ích cốt lõi ở mức độ tương tự như vấn đề Đài Loan. Tuy nhiên, sự suy đoán chẵng đáng kể, kết hợp với hành động khước từ của Bắc Kinh từ chối công khai bác bỏ những tin đồn tăng thêm những mối quan tâm đã được phát triển giữa các nước ASEAN là Trung Quốc đang ngày càng trở nên quyết đoán về vấn đề này.

Bên dưới những mối quan tâm này là khẳng định của Trung Quốc rằng các cuộc đàm phán được tiến hành song phương và không có bên thứ 3. Dẩu với chính sách láng giềng tốt của nó, nó vẫn sợ rằng nhiều nước ASEAN sẽ không chấp nhận tuyên bố của mình, và rằng một đàm phán giải quyết trong các tổ chức khu vực sẽ làm suy giảm đòn bẩy của nó. Bắc Kinh hiểu rằng chiến lược tốt nhất cho các nước nhỏ hơn sẽ cân bằng với Trung Quốc là tìm kiếm sự hỗ trợ và quan hệ tốt đẹp với một quyền lực to lớn : Mỹ. Nó cũng đã từ chối sử dụng bất kỳ cơ chế giải quyết tranh chấp nào thông qua UNCLOS vì sợ rằng, mặc dù bằng chứng lịch sử hỗ trợ chủ quyền đối với hải đảo và lý giải theo công ước tại ít nhất là một số khiếu nại hàng hải của nó, đòi hỏi của nó sẽ bị từ chối. Với tình cảm dân tộc chủ nghĩa gắn liền với tranh chấp, chính phủ sẽ gặp khó khăn giải thích lý do tại sao nó phải chấp nhận một quyết định tiêu cực kết xuất theo một hệ thống.được nhận thức là "phương Tây thống trị". Các quốc gia yêu sách khác lo ngại rằng tham gia song phương sẽ cho phép Trung Quốc sử dụng thương mại, chính sách đầu tư như là đòn bẩy để đạt được kết quả thuận lợi, và xem các ưu đãi đối với đàm phán song phương như là một chiến thuật để áp đặt quyền lực và nhận được theo cách của mình trong khu vực.

C. Các sự cố ở Biển.

Ngày 08 Tháng 3 năm 2009, Năm tàu ​​Trung Quốc theo dõi chặt chẽ và bao vây tàu khảo sát thủy văn Mỹ, USNS Impeccable, chừng 120 km về phía nam của đảo Hải Nam. Theo một tuyên bố của Lầu Năm Góc, một tàu thu thập thông tin tình báo Trung Quốc đã cảnh báo tàu này một ngày trước đó rằng, rời khỏi khu vực hoặc "gánh chịu hậu quả". Cuộc đối đầu chủ yếu là kết quả của các giải thích khác nhau về tự do hàng hải giữa Trung Quốc và Mỹ, và không có gì để làm với vấn đề chủ quyền đối với khu vực tranh chấp. Tuy nhiên, phản ứng mạnh mẽ bất thường của Bắc Kinh đã tăng cao mối quan tâm khu vực rằng nó sẽ bắt đầu thắt chặt kiểm soát ngoại vi hàng hải của nó, có khả năng bao gồm các khu vực tranh chấp. Sự kiện này đóng góp vào những lo ngại ngày càng tăng trong khu vực về chính sách ngoại giao nhạy cảm đang phát triển của Trung Quốc hướng đến các khiếu nại hàng hải của nó. Từ năm 2007, chính phủ liên tục cảnh báo các công ty dầu nước ngoài tiếp tục hợp tác với Việt Nam trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông sẽ ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của họ ở Trung Quốc, báo cáo gây ra một số công ty quốc tế từ bỏ các dự án khoan dầu tại Việt Nam. Những cảnh báo này trùng hợp với việc tăng cường tuần tra thi hành pháp luật trong vùng biển tranh chấp bởi cơ quan Hải giám và Cục Quản lý Thủy sản Trung quốc, đã gây nên những cuộc chạm trán với tàu khảo sát địa chấn nước ngoài và thuyền đánh cá.

Khi các quốc gia Đông Nam Á công khai chỉ trích Trung Quốc trong Diễn đàn Khu vực ASEAN tháng bảy năm 2010 tại Hà Nội đối với những hành động quyết đoán, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì trả lời: "Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là những nước nhỏ, và đó đúng là một thực tế". Trong khi không phải xảy ra trong vùng biển Đông, phản ứng cực đoan của Bắc Kinh với việc Nhật Bản bắt giữ một thuyền trưởng của Trung Quốc trong lãnh hải của đảo Điếu Ngư / Senkaku tranh chấp trong tháng 9 năm 2010 cũng xác nhận những lo ngại của khu vực về hậu quả của sự thách thức quyền lợi của mình.

Căng thẳng đạt đến đỉnh điểm vào mùa xuân năm 2011 khi tàu tuần tra Hải giám Trung Quốc (CMS) xung đột với tàu địa chấn người Việt Nam và người Philippines đang hoạt động trong các khu vực được cả hai nước xem là bên trong EEZs của họ. Ngày 2 tháng Ba, hai tàu CMS quây quanh trục xuất tàu nghiên cứu của Philippines đang tiến hành nghiên cứu địa chấn ở Bank Reed, gần đảo Palawan của Philippines. Theo Manila, ít nhất là năm sự cố khác xảy ra giữa tàu Trung quốc và Philippines trước tháng 6 năm 2011, hướng dẩn người dân Philippines Tổng thống Aquino khẳng định, "chúng ta phải cho thế giới biết rằng chúng ta đã sẵn sàng để bảo vệ những gì của chúng ta".

Năm 2011, tàu Trung Quốc cắt đứt cáp thăm dò của tàu khảo sát địa chấn của Petro Việt Nam trên hai lần, đầu tiên xảy ra sâu bên trong những gì Việt Nam xem xét là vùng đặc quyền kinh tế của nó và nay là từ Hoàng Sa đang tranh chấp.Trong cả hai trường hợp, các tàu thực thi pháp luật Trung Quốc hoặc trực tiếp tham gia hoặc hộ tống các tàu cá cắt các dây cáp. Những cuộc đụng độ này, được mô tả bởi các quan chức Việt Nam là "thù địch", "hung hăng" và "sự cố nghiêm trọng nhất " giữa Trung Quốc và Việt Nam kể từ năm 1998, kích hoạt mười hai tuần biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Bắc Kinh nhiều lần tuyên bố các hành động của tàu của nó được giải thích là tàu nước ngoài khảo sát bất hợp pháp trong vùng biển Trung Quốc.

Mối quan tâm khu vực đã bị tiếp tục làm trầm trọng thêm bởi các buổi diển tập thực hiện trong khu vực trong tháng 4 năm 2010 của Hạm đội Biển Nam thuộc Hải quân Trung Quốc (PLAN) . Đáng kể nhất là diển tập ở quy mô lớn , trong đó Hạm đội Biển Nam phối hợp với Hạm đội Biển Bắc và Hạm đội Biển Đông lần đầu tiên chứng minh khả năng phô diển sức mạnh của PLAN. Không có gì cho thấy quân đội Trung Quốc đã tiến hành các bài tập với mục đích tăng cường các tuyên bố ở Biển Đông hoặc ngăn chặn các quốc gia khiếu nại khác. Tuy nhiên, khi Hải quân quân đội giải phóng nhân dân TQ ( PLAN ) cố gắng cải thiện khả năng chiến đấu chiến tranh của nó và gia tăng sự hiện diện của nó trong Biển Đông, nó đã góp phần vào mối quan tâm khu vực qua các ý định của Trung Quốc.



D.Phản ứng của Khu vực

Trong phản ứng với hành động của Trung Quốc, các quốc gia khiếu nại khác đã tìm cách thách thức tuyên bố của Trung Quốc bằng cách "đa phương hóa" vấn đề trong khuôn khổ ASEAN và bằng cách khuyến khích các nhân tố khác bên ngoài khu vực, đặc biệt là Mỹ, mà còn châu Âu và Nhật Bản, trở thành dính líu ngoại giao. Năm 2010, Việt Nam sử dụng vai trò chủ tịch ASEAN của nó đưa Biển Đông vào danh sách chương trình nghị sự của tổ chức. Với sự khuyến khích của Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton định vị nó như một chủ đề chính vào Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) tháng 7 năm 2010, và trong tổ chức rộng hơn, bằng cách nói rằng tự do hàng hải.Biển Đông là "lợi ích quốc gia" và Mỹ sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho một nghị quyết hợp tác.

Ngoài những nỗ lực của Việt Nam, Philippine ủng hộ rằng các thành viên ASEAN đặt sang một bên những tranh chấp giữa chính họ và tạo thành một mặt trận thống nhất để buộc Bắc Kinh làm rõ tuyên bố của nó, và cũng đã nhìn vượt ra ngoài ASEAN đối với sự trợ giúp. Đặc biệt, nó khuyến khích Washington đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng cường khả năng quân đội của Philippines . Trong tháng 1 năm 2012, Manila thông báo rằng nó có khả năng cấp cho quân đội Mỹ tiếp cận nhiều hơn với lãnh thổ của mình đối với tái tiếp tế, tiếp nhiên liệu, và sửa chữa. Bất chấp chống đối của Trung Quốc, Việt Nam và Philippines cũng đã tích cực tìm kiếm sự hỗ trợ của nước ngoài, bao gồm Ấn Độ, Nhật Bản, và Hàn Quốc, trong một nỗ lực để cân bằng sự quyết đoán của Bắc Kinh trong khu vực.

E. Sự tham gia của Mỹ

Trong khi Trung Quốc nhận ra rằng hành động của nó ở Biển Đông đã làm hỏng mối quan hệ của nó với các nước láng giềng của nó, nhận thức rằng Mỹ đã lợi dụng tình hình để tăng cường sự hiện diện của nó và liên minh của nó trong khu vực là yếu tố đã mang vấn đề Biển Đông đến với sự quan tâm trực tiếp của lãnh đạo Trung Quốc. Từ năm 2010, khi Hillary Clinton tái khẳng định rằng tự do di chuyển trong Biển Đông là một lợi ích quốc gia, mục đích chính của chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông là để ngăn cản sự tham gia của Mỹ và quốc tế hóa tranh chấp. Từ quan điểm của Bắc Kinh, các nước ASEAN đã sử dụng Mỹ như một hàng rào để cân bằng chống lại sức mạnh ngày càng tăng của nó, và Washington đã sử dụng chúng để mở rộng sự hiện diện của nó ở khu vực . Bắc Kinh cũng lo ngại rằng sự tham gia của Mỹ sẽ quốc tế hóa tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, cô lập Trung Quốc và tiếp tục cản trở nỗ lực của nó để đạt được kết quả mong muốn. Sự tập trung kỳ quặc của Bắc Kinh trên vai trò của Mỹ trong khu vực đã được nhấn mạnh bởi một nhà ngoại giao Việt Nam, nói rằng Trung Quốc không thấy Việt Nam nghiêm túc trước tuyên bố của bà Clinton: "bây giờ họ lắng nghe chúng ta" , ông nói . Cho rằng sự tham gia của Mỹ gia tăng đạt đến các yêu cầu của các quốc gia Đông Nam Á, Các nhà phân tích Trung Quốc đặt câu hỏi liệu có phải Trung Quốc đã bị mất quá nhiều với việc Mỹ ở trong khu vực. Điều này khiến Bắc Kinh thông qua một cách tiếp cận ôn hòa hơn vào giữa năm 2011 để xoa dịu căng thẳng trong khu vực.

Nhóm khủng hoảng quốc tế (Crisis Group) là một tổ chức độc lập, phi lợi nhuận, phi chính phủ, với một số 130 nhân viên trên khắp năm châu, làm việc thông qua các lĩnh vực dựa trên phân tích và vận động chính sách cấp cao để ngăn chặn và giải quyết xung đột chết người.

( Còn tiếp )

1    2    3   4    5

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.