Khuấy động Biển Đông (phần cuối).

Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) và các cơ chế giải quyết tranh chấp với điều kiện là theo UNCLOS có thể được sử dụng để giải quyết các yếu tố khác nhau của tranh chấp ở Biển Đông.

INTERNATIONAL CRISIS GROUP .Bắc Kinh / Brussels, 23 tháng 4 năm 2012.
Trích từ STIRRING UP THE SOUTH CHINA SEA (I) của CRISIS GROUP

Trần H Sa Lược dịch.

CHÍNH SÁCH TIẾN THOÁI LƯỠNG NAN CỦA BẮC KINH.

Bắc Kinh cảm thấy rằng nó bị thiếu những lựa chọn cho một chính sách tốt trong Biển Đông. Các nỗ lực ngoại giao thất bại mang lại thay đổi và một giải pháp quân sự là không khả thi. Trung Quốc kêu gọi hợp tác phát triển các nguồn lực bên dưới vùng biển tranh chấp, nhưng không có kế hoạch thay thế khi các bên khác từ chối đề nghị. Nó tiếp tục nhắc lại rằng quần đảo tranh chấp, đá, rạn san hô và vùng biển là lãnh thổ của Trung Quốc, nhưng nó không có biện minh hiệu quả cũng không có biện pháp làm thay đổi thực tế rằng phần lớn trong số đó trên thực tế ở dưới sự kiểm soát và quản lý của các nước khác. Hơn nửa, chính phủ hiểu rằng trên thực tế sự kiểm soát và quản lý này còn tiếp tục lâu hơn nửa, bớt tham ăn là cơ hội của Trung Quốc nhận được sự công nhận đối với tư cách pháp lý của nó. Bắc Kinh cảm thấy rằng nó phải đối mặt với một vấn đề hóc búa. Nó có những ưu thế và lợi ích khác của 1 quốc gia quan trọng qua đó thực hiện một chính sách nguyên trạng có vẻ như là lựa chọn duy nhất. Có vẻ ý tưởng để lại các vấn đề khó khăn cho thế hệ sau -- đầu tiên được đề xuất bởi Đặng Tiểu Bình vào năm 1978 liên quan đến tranh chấp Biển Đông - hiện đang được áp dụng cho Biển Đông.

A. KHÔNG với GIẢI PHÁP QUÂN SỰ

Mặc dù Trung Quốc đang tham gia với 1 quân đội hiện đại hóa đáng kể và được tăng cường Hạm đội Nam Hải để chứng minh sức mạnh của nó trong khu vực, và có hai cơ hội trước đây (1974 và 1988) đã sử dụng quân đội để giành quyền kiểm soát các đảo và rạn san hô ở Biển Đông, rõ ràng là các nhà lãnh đạo hiện nay sử dụng lực lượng quân sự để tái chiếm các vùng lãnh thổ tranh chấp ở dưói sự kiểm soát của nước khác không phải là một lựa chọn. Ngay cả nếu nó có khả năng làm như vậy, Bắc Kinh biết cái giá ngoại giao sẽ là quá cao, đặc biệt là trong việc cung cấp cho Hoa Kỳ lý do để tăng cường sự hiện diện của nó trong khu vực. Hiện tại, Trung Quốc không muốn cố ý bắt đầu một cuộc xung đột quân sự liên quan đến Washington, cũng như sẽ không thể làm gián đoạn thương mại và ổn định khu vực. Ưu tiên quốc gia của nó vẫn còn là phát triển kinh tế trong nước cũng như giải quyết các vấn đề xã hội và chính trị nội bộ khác.
.
B. TIẾP CẬN NGOẠI GIAO THẤT BẠI.

Cách tiếp cận ngoại giao của Trung Quốc với vùng biển Đông có ít viễn cảnh thành công bởi vì các câu hỏi hóc búa trên lãnh vực pháp lý mà nó phải đối mặt trong việc làm rõ tuyên bố của mình, đặc biệt là trong phương diện sử dụng các tiêu chuẩn khác nhau đối với việc dàn xếp lãnh thổ trong suốt các cuộc đàm phán với các nước láng giềng của nó. Áp lực trong nước cũng cản trở một giải pháp thiết thực cho vấn đề này.

1. Thất bại của phát triển chung.

Một thành phần quan trọng trong quan điểm của Trung Quốc ở Biển Đông (đối với quần đảo Trường Sa nói riêng) đã được "đặt sang một bên những tranh chấp và tham gia vào phát triển chung "..Đặng Tiểu Bình lần đầu tiên đề xuất điều này với Phó Tổng thống Philippines, Salvador Laurel, trong chuyến thăm của ông vào tháng Sáu năm 1986. Kể từ đó, Bắc Kinh đã nhiều lần sử dụng cụm từ "phát triển chung" khi cáo buộc những quốc gia tuyên bố khác đơn phương phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong khu vực. Các quan chức và các nhà phân tích đã bảo vệ đề nghị bằng cách nói rằng Trung Quốc đang thực hiện một thỏa hiệp to lớn bằng cách cung cấp phát triển chung của một khu vực mà tính hợp pháp thuộc về nó, và rằng những nỗ lực phát triển đơn phương của Việt Nam, Malaysia và Philippines có thể được xem như là một sự từ chối hoàn toàn thiện chí của Trung Quốc.[ quan điểm của Đặng Tiểu Bình là :{Bển Đông) chủ quyền là của ta (TQ) nhưng gác tranh chấp sang 1 bên, cùng nhau phát triển chung.......BHM].

Bắc Kinh đã không thực hiện bất kỳ kế hoạch phát triển chung nào với các bên có yêu sách khác kể từ khi đưa ra lời đề nghị, mà nó đã bị từ chối chủ yếu là bởi các điều kiện tiên quyết do Trung Quốc thiết đặt -- rằng các bên tranh chấp khác phải chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các vùng lãnh thổ tranh chấp trước khi phát triển chung được thảo luận hoặc thực hiện. Giải thích của Bắc Kinh "chung" có nghĩa rằng Trung Quốc phải là một đối tác trong mọi dự án chung riêng lẻ, đó là điều rất khó khăn để các bên tranh chấp khác chấp nhận. Trong một trường hợp cụ thể, ở đó thoả thuận đạt được với Việt Nam và Philippines, đề nghị cuối cùng không thành công do sự thù địch công khai chống lại ở Philippines. Các quốc gia tuyên bố khác không bao giờ chấp nhận điều kiện này nhưng Trung Quốc cũng thất bại trong việc đưa ra được bất kỳ lựa chọn thay thế hữu hiệu nào. Hầu hết các bên tuyên bố chủ quyền của Đông Nam Á không nhìn thấy lý do để phát triển chung ở tất cả. Trong quan điểm của họ, quần đảo Trường Sa là lãnh thổ của họ và không cần phải chia sẻ nó với bất kỳ quốc gia nào khác. Theo một nhà ngoại giao ASEAN : "Nếu Trung Quốc cảm thấy tự tin về tuyên bố riêng của mình về vấn đề lãnh thổ, tại sao nó chịu chia sẻ những lợi ích phát triển của chúng ? Họ [các nước tuyên bố Đông Nam Á] chắc chắn cảm thấy đủ tự tin về chủ quyền của họ trên khu vực, ở đó họ không nhìn thấy cần thiết phải chia sẻ chúng, bất kể với lý do là Trung Quốc tuyên bố nó cũng có quyền sở hữu ở đó".

2. Không phù hợp với tiền lệ

Trung Quốc thông qua các tiêu chuẩn khác nhau trong suốt các cuộc đàm phán với các nước láng giềng. Kết quả là, nó không có một tập quán thiết lập chính sách để quyết định làm thế nào giải quyết những bất đồng với các nước láng giềng, đặc biệt là khi nói đến tranh chấp hàng hải.

Khi Nhật Bản đề xuất một phân định "50-50" trong những năm 1970 để giải quyết tranh chấp Trung-Nhật trên thềm lục địa Biển Đông Trung Quốc, Trung Quốc kiên quyết loại bỏ nó. Thay vào đó, nó cho rằng các vị trí tranh chấp cần được giải quyết trên cơ sở "mở rộng tự nhiên của thềm lục địa", có nghĩa là tất cả thềm lục địa của biển Đông Trung Quốc mở rộng về phía đông từ đường ven biển của nó là thuộc về Trung quốc. Công thức này, khi so sánh với công thức đề xuất "50-50" của Tokyo, cho phép Bắc Kinh gia tăng kích thước tuyên bố chủ quyền thềm lục địa của nó với 30.000 cây số vuông..

Tuy nhiên, khi Trung Quốc đàm phán tranh chấp lãnh thổ trên đảo Heixiazi với Nga trong những năm 1990 (vị trí mà họ đã lao vào một trận chiến năm 1969), nó đã bị tổn hại trong tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ hòn đảo và đã chấp nhận công thức "50-50". Trong Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc một lần nữa chấp nhận công thức "50-50", với sự tổn thương hơn nữa qua việc Việt nam chiếm đóng đảo trong Vịnh Bắc Bộ Kết quả phân định cắm mốc biên giới sau cùng là "53-47", với Việt Nam có được phần lớn hơn của khu vực hàng hải. Sau đó, dân chúng cho rằng việc sẵn sàng thỏa hiệp với Nga và Việt Nam là do sự háo hức của Chủ tịch Giang Trạch Dân trong việc giải quyết tranh chấp biên giới.

Những giải quyết hàng hải với Việt Nam cũng đặt ra một tiền lệ không phù hợp đối với các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ theo lịch sử của Trung Quốc ở Biển Đông. Bắc Kinh khẳng định rằng các nước Đông Nam Á phải chấp nhận chủ quyền của nó đối với các tính năng địa lý trong đường lưỡi bò bởi vì về mặt lịch sử chúng đã là của Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc đã chuyển giao quyền kiểm soát đảo Bạch Long Vĩ cách bờ biển đảo Hải Nam 70 hải lý cho Việt Nam vào năm 1957 , mặc dù thực tế rằng một ngôi làng đánh cá của người Trung Quốc đã ở trên đảo gần 100 năm. Hòn đảo này, rất gần với bờ biển Trung Quốc và với bằng chứng lịch sử quản lý và chiếm cứ của người Trung Quốc, nó lại không được coi là "Lãnh thổ lịch sử" của Trung Quốc, câu hỏi có thể được nổi lên rằng "ra làm sao" với các hòn đảo ở biển Đông, chúng cách xa đại lục hơn và có ít bằng chứng lịch sử, liệu có thể được xem xét như vậy. Các quốc gia tuyên bố khác chỉ ra những cách giải quyết lãnh thổ với Việt Nam là một "ví dụ về tiêu chuẩn kép của Trung Quốc".[quả đúng là thả con săn sắt bắt con cá rô khi mà một năm sau TQ nhận được công hàm 14/09/1958, ....BHM].

Trung Quốc cũng đã thiết lập những tiền lệ pháp lý không phù hợp đối với tuyên bố của nó, rằng Quần đảo Nam Sa (Trường Sa) -- hầu như tất cả đều là những hòn đảo nhỏ, đá, chỉ lộ ra khi thủy triều xuống thấp hoặc các rạn san hô lớn chìm dưới nước ; không có khả năng duy trì nơi sinh sống lâu dài -- được hưởng như là một vùng đặc quyền kinh tế. Trong trường hợp hòn đảo Okinitorishima của Nhật Bản , Trung Quốc bảo lưu ý kiến rằng hòn đảo nhỏ không có người ở không nên được cung cấp một thềm lục địa hay vùng đặc quyền kinh tế riêng của nó, và nói thêm rằng thực tiễn tương tự nên được làm theo trong vùng biển Đông. Nếu Bắc Kinh giữ nguyên tắc này, nó sẽ không thể biện minh yêu sách đòi hỏi của nó đối với một phần lớn vùng biển chung quanh quần đảo Trường Sa và trong đường lưỡi bò.

3. "Để nó lại cho thế hệ sau"

Bộ Ngoại giao có thể hiểu tốt nhất tất cả các vấn đề xuất phát từ tiền lệ không thuận lợi và thiếu các lựa chọn chính sách tốt cho Biển Đông. Tuy nhiên, Bộ NG và chính phủ đã phổ biến rộng rải ý tưởng rằng các lãnh thổ tranh chấp là người Trung Quốc đối với lúc ấy không có thể dễ dàng rút ý kiến mà không xem ra như thể là đang đầu hàng với lợi ích nước ngoài hoặc từ bỏ lãnh thổ. Các quan chức MFA hiểu rằng bất kỳ đàm phán thực tế nào về tranh chấp sẽ yêu cầu sự thỏa hiệp trên tất cả các bên, trước yêu sách gây tranh cãi của Trung Quốc trên toàn bộ Hoàng Sa và Trường Sa và trên phương diện thực tế hiện nay, chúng được kiểm soát bởi các nước yêu sách khác nhau.

Điều này đặt ra cho MFA, đặc biệt là bộ phận ranh giới và các vấn đề đại dương, ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan qua việc tìm kiếm một giải pháp bao gồm từ bỏ một số vùng lãnh thổ tuyên bố, hoặc duy trì tuyên bố hiện tại và không thể đạt được một giải quyết ngoại giao.

Vấn đề có ý nghĩa chính trị to lớn: ở trong nước, bất kỳ thỏa hiệp nào, ngay cả đối với mục đích giải quyết tranh chấp có lợi lẩn nhau, sẽ bị chỉ trích nặng nề. Vì vậy, duy trì nguyên trạng được xem là lựa chọn chính sách an toàn nhất cho MFA, cản trở đối thoại ngoại giao có ý nghĩa có thể dẫn đến một tình trạng phân tán. Châm ngôn thông thường trong Bộ Ngoại giao là "bạn không phải làm điều đó, nhưng bạn sẽ bị đổ lỗi nếu bạn làm điều đó và nó không kết thúc tốt". Vì vậy, MFA thà "đặt tranh chấp sang một bên" và "để lại nó cho tương lai, thế hệ thông minh hơn".

C. Từ chối Cơ chế Liên Hợp Quốc

Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) và các cơ chế giải quyết tranh chấp với điều kiện là theo UNCLOS có thể được sử dụng để giải quyết các yếu tố khác nhau của tranh chấp ở Biển Đông. Tuyên bố chủ quyền các đảo đại diện cho một tranh chấp chủ quyền trên lãnh thổ đất liền, và có thể được trình lên Tòa án Quốc tế, trong khi những khu vực hàng hải được tạo ra bởi các hòn đảo này sẽ được xác định bởi các quy định của UNCLOS và cơ chế giải quyết tranh chấp của nó, trong đó bao gồm Tòa án Công lý Quốc tế và Tòa án Quốc tế về Luật Biển. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã nhiều lần thực hiện rõ ràng rằng nó sẽ không dựa vào các cơ chế này để giải quyết tranh chấp.

1. Tòa án Công lý Quốc tế ( ICJ )

Với ICJ, để nghe một trường hợp, tất cả các bên liên quan trong tranh chấp phải tỏ rỏ sự đồng ý tham gia. Tại thời điểm này, phía yêu sách duy nhất trong Biển Đông chấp nhận bất kỳ vai trò nào đối với tòa án trong tranh chấp là Philippines. Trong khi Tòa án Công lý Quốc tế quyết định một số lượng tranh chấp lãnh thổ kể từ khi được thành lập, có niềm tin phổ biến rộng rãi trong giới chính sách của Trung Quốc rằng ngay cả khi được mời để quyết định một vấn đề lãnh thổ, nó bị giới hạn trong những tranh chấp có kết quả từ việc trao trả độc lập cho các thuộc địa, các cuộc xâm lược và ly khai, không có gì trong số đó áp dụng trong trường hợp của Trường Sa hoặc Quần đảo Hoàng Sa. [ vịnh Bắc Bộ đã được phân định ranh giới bởi Pháp và nhà Thanh, nhưng TQ dựa trên lập luận này yêu cầu phân định lại ; kết quả VN mất một số diện tích biển ở đây......BHM]

2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS

UNCLOS cung cấp cơ chế giải quyết tranh chấp rộng rãi về ranh giới hàng hải, cung cấp bốn lựa chọn về địa điểm cho trọng tài hoặc xét xử, bao gồm cả Tòa án quốc tế về Luật Biển, Tòa án Quốc tế, phân xử không theo thể thức ( ấn định trước ), và một "Hội đồng trọng tài đặc biệt" được thành lập cho một số loại tranh chấp. Tuy nhiên, mặc dù Trung Quốc đã phê chuẩn UNCLOS trong năm 1996, nó rỏ ràng từ chối cơ chế giải quyết tranh chấp mà nó đã tham gia. Bắc Kinh hiểu rằng sự xét xử hoặc trọng tài có tính quốc tế sẽ không có khả năng hỗ trợ tất cả các tuyên bố của mình trên lãnh thổ và lãnh hải. Tuy nhiên, nó sẽ là khó khăn để giải thích với công chúng trong nước lý do tại sao nó phải chấp nhận một quyết định chống lại yêu sách lợi ích quốc gia của nó bởi một hệ thống "phương Tây thống trị". Bắc Kinh do đó đã kết luận rằng những ràng buộc của trọng tài sẽ không phải là những quan tâm của mình.

VI.THAY ĐỔI CHIẾN THUẬT : CÁCH TIẾP CẬN MỚI.

Giữa năm 2011, Trung Quốc đã thông qua một cách tiếp cận mới ôn hòa hơn với Biển Đông khi nó đã cố gắng xoa dịu căng thẳng và sửa chữa quan hệ với các nước Đông Nam Á. Ngoài lo ngại về ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực, một học giả Trung Quốc giải thích : các lãnh đạo trung ương cảm thấy rằng có "quá nhiều con rồng, quá nhiều tiếng ồn". Các nhà phân tích Trung Quốc đã chỉ ra hai bước nội bộ và ba động thái thiện chí hòa giải khu vực là những dấu hiệu rỏ ràng của sự thay đổi này : yêu cầu PLA ôn hòa hơn, đòi hỏi rằng Bộ Ngoại giao hướng dẫn nhiều hơn cho các diễn viên khác, ký kết thỏa thuận Trung Quốc-ASEAN về Hướng dẫn thực hiện DOC tháng 7 năm 2011, tái khẳng định nguyên tắc vùng biển Đông của Đặng Tiểu Bình trong Bạch thư Phát triển Hòa bình tháng Chín 2011 , và đồng ý hạn chế phương tiện truyền thông tường trình và bình luận tiêu cực chuyến thăm của Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam tháng mười 2011. Nhiều nước cũng đã chú ý đến giọng điệu ôn hòa hơn của ngôn từ ngoại giao, đặc biệt khi so sánh với ngoại trưởng Dương Khiết Trì nhận xét về "nước nhỏ" đã được ghi nhận rộng rãi. Những vụ giam giử ngư dân Việt Nam đã được giảm, và Trung Quốc không gây cản trở khai thác dầu khí trong vùng biển tranh chấp.

Tuy nhiên, thực tế cấu trúc của chính sách biển Đông, với mười một diễn viên trung ương và địa phương thực hiện chính sách dựa trên lợi ích riêng của họ, có khả năng làm cho một cách tiếp cận hòa giải không bền vững trong dài hạn, đặc biệt là không có một thẩm quyền mạnh mẽ nhưng ôn hòa phối hợp .

A. TĂNG CƯỜNG PHỐI HỢP.

Lo ngại về những căng thẳng trong khu vực, lãnh đạo trung ương quyết định phục hồi quyền hạn phối hợp của MFA vào giữa năm 2011. Cơ quan thực thi luật pháp được yêu cầu thông báo cho Bộ NG về các ý định dính líu tới tàu của các quốc gia khác Các kế hoạch từ các văn phòng của Cục Quản lý An toàn Hàng hải và Giám Sát Hàng hải Trung Quốc gửi tàu tuần tra tới vùng lãnh thổ tranh chấp cũng có nghĩa vụ phải gửi đến MFA. Bộ NG được khuyến khích thông báo cho các cơ quan khác như Cục Quản lý Thủy sản các chính sách cụ thể ở Biển Đông. Ngoài ra, MFA cung cấp các chỉ dẩn chính sách cho các cơ quan chính phủ khác về việc làm thế nào để xử lý với phương tiện truyền thông trong chuyến thăm của Tổng Bí thư Đảng CS Việt Nam trong tháng 10 năm 2011. Các cơ quan như Thủy sản và Giám sát Hàng hải Trung Quốc đã bày tỏ thất vọng với các Bộ khác về thẩm quyền phối hợp tăng cường của Bộ NG.

Quyết định của lãnh đạo trung ương gaio cho MFA quyền hạn phối hợp nhìều hơn đã theo sau quyết định của nó trong cuối năm 2010 tạo ra một nhóm nhỏ dẩn đầu mới, trên thực tế ở dưới sự chủ trì của ông Đới Bỉnh Quốc, để xử lý vấn đề trên biển Đông. Nhóm nhỏ Dẫn đầu được hình thành theo Chương IX của Hiến pháp là sự phối hợp cơ quan trên-Bộ ( cao hơn bộ ) và cơ chế cố vấn để cố gắng xây dựng sự đồng thuận về vấn đề, cắt ngang chính phủ, đảng và quân đội. Tuy nhiên, Nhóm nhỏ dẩn đầu này được thành lập hoàn toàn như là một cơ chế đối phó và đã có khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Thực tế là nó đã giử nhiệm vụ trong những sự cố ở tháng Năm và tháng Sáu 2011, cũng cho thấy rằng có thể nó đã chẵng hài lòng do không đủ thẩm quyền để phối hợp các diển viên chịu trách nhiệm về các sự cố.

B.TRẤN AN QUÂN ĐỘI TQ

Mối quan tâm trong chính phủ trung ương về "tiếng ồn" quá mức trong Biển Đông đã dẫn đến việc làm dịu đi những bình luận hung hăng ​​từ các nhà nghiên cứu và các sĩ quan PLA đã nghỉ hưu, những người trước đó đã nhận được sự chú ý đáng kể của các phương tiện truyền thông. Trong bối cảnh gia tăng căng thẳng khu vực từ năm 2009 và đặc biệt là trong đầu mùa hè năm 2011, một số sĩ quan PLA đã mạnh mẽ tuyên bố công khai rằng mối quan tâm khu vực được tăng cường liên quan đến mục đích ủa Trung Quốc. Trong khi đối mặt với mối quan tâm này, chính quyền trung ương đã nỗ lực để kềm chế quân đội. Trong một động thái thể hiện sự ảnh hưởng mạnh mẽ, nó có thể vận dụng khi nắm lấy một vấn đề, vào giữa năm 2011, lãnh đạo trung ương ban hành một thông điệp ngăn chặn những căng thẳng đang bùng phát mà qua đó đã dập tắt có hiệu quả các bài bình luận nhằm kích động vấn đề từ quân đội. Kể từ đó, thỉnh thoảng chỉ có những lời lẻ khích bác từ những nhân vật được cho là trực tính như Thiếu tướng Luo Yuan. PLA cũng gia tăng trao đổi cấp cao với các đối tác từ các bên tranh chấp khác.

Trong quân đội Trung Quốc, có ý kiến ​​khác nhau về việc Trung Quốc nên tiếp cận vấn đề như thế nào. Nhìn chung, quân đội tin rằng đất nước có lợi ích chiến lược quan trọng trong việc bảo vệ thông tin liên lạc tuyến biển, và bảo đảm sự tiếp cận của hải quân đối với vùng biển trong khu vực. Biển Đông được xem là một khu vực trọng điểm, trong đó nó nên có khả năng thực thi kiểm soát. Tuy nhiên, lãnh đạo quân sự không đồng thuận về các phương án tích cực để bảo vệ các lợi ích này. Những nhân vật cứng rắn đồng ý quyết đoán lớn hơn bằng cách thực hiện các bình luận khiêu khích trên các phương tiện truyền thông, mặc dù một số tin tưởng quân đội chẵng có bất kỳ mục đích ngắn hạn nào để tham gia vào các cuộc xung đột ở Biển Đông. Những bình luận khiêu khích có thể không được coi là đại diện PLA, chủ yếu là đến từ các sĩ quan PLA đã nghỉ hưu hoặc các nhà nghiên cứu ở các viện nghiên cứu trực thuộc PLA.

Trong cuộc tranh luận này, có những người khác trong PLA , những người ủng hộ một cách tiếp cận thận trọng hơn. Các nhân vật cứng rắn đã nhận được nhiều sự chú ý và tình cảm dân tộc chủ nghĩa căm phẩn của công chúng , đặt các nhà hoạch định chính sách ôn hòa hơn trong một vị trí khó khăn. Một số gán cho các báo cáo mạnh mẽ với sự thèm muốn vô hạn của PLA là để bảo đảm lớn hơn các nguồn lực trong nước cho chính nó và cũng có thể tăng cường vai trò chính trị. Mặc dù vai trò của quân đội Trung Quốc ở Biển Đông vẫn còn là thứ yếu, rất khó để mong đợi các nước láng giềng hạ thấp giá trị những bình luận hung hăng từ các sĩ quan quân đội đã nghỉ hưu khi phân tích ý định và chiến lược của PLA.

C. HƯỚNG DẪN THỰC THI DoC Ở BIỂN ĐÔNG

Trung Quốc đã thống nhất tại Diễn đàn Khu vực ASEAN tháng bảy 2011, chấp nhận Hướng dẫn thực hiện Tuyên bố về cách hành xử (DOC) của các bên ở Biển Đông.. Tuyên bố trước đây đã được đàm phán giữa Trung Quốc và các nước ASEAN, trong đó tất cả các bên đồng ý "thực hiện quyền tự hạn chế trong việc tiến hành các hoạt động có thể làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp". Trung Quốc và Việt Nam đã bị bế ​​tắc trong việc triển khai thực hiện DOC, và bảng hướng dẫn được coi là một dấu hiệu tích cực trong hợp tác giữa hai nước. Trước tiên đã được đồng ý vào năm 2002, DOC được dự định như là một bước sơ bộ cho một ứng xử có tính ràng buộc pháp lý về việc hướng dẩn các hoạt động trên biển. Việc thực hiện đầy đủ đã bị đình trệ qua nhấn mạnh của Việt Nam rằng, các nước ASEAN được phép gặp gở trao đổi từng nước với Trung Quốc trước khi tổ chức thảo luận nhóm với Trung Quốc. Tuy nhiên, trong chuyến thăm Trung Quốc của thứ trưởng ngoại giao Việt Nam, Hồ Xuân Sơn ; Việt Nam đã đồng ý bỏ quy định này trong khi Bắc Kinh đã báo hiệu rằng các quốc gia ASEAN có thể tiếp tục trên thực tế thực hiện cuộc họp như là một nhóm trước khi gặp với Trung Quốc.[ quan điểm của TQ là : hoặc là quan hệ song phương giửa 2 nước, hoặc là TQ chỉ chấp nhận nói chuyện với 1 ASEAN. Có nghĩa các nước ASEAN chỉ có 1 tiếng nói để nói chuyện với TQ ; họ dứt khoát không chấp nhận 2 từ "đa phương".......BHM]

Trong khi bảng hướng dẫn thiếu biện pháp cụ thể để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông. Thỏa thuận của Trung Quốc là một cử chỉ thiện chí biểu trưng quan trọng để tránh căng thẳng bằng cách thúc đẩy đối thoại khu vực. Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì cho biết tại diễn đàn rằng việc thực hiện đầy đủ Hướng dẫn và DOC có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán. Trước khi ký kết các tài liệu hướng dẫn, Trung Quốc cũng đã tổ chức một số hội thảo về vấn đề hợp tác hàng hải Trung Quốc - ASEAN và các vấn đề liên quan khác. Sau cuộc họp năm 2012 tại Bắc Kinh giữa ASEAN và các quan chức Trung Quốc về việc tiếp tục thực hiện đầy đủ bảng hướng dẫn, bốn nhóm làm việc đã được thiết lập để khai thác bốn trong số năm hoạt động hợp tác được liệt kê trong DOC 2002 là : bảo vệ môi trường biển, hoạt động nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm và cứu nạn và đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia.

D. BẠCH THƯ CỦA HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC về việc PHÁT TRIỂN HÒA BÌNH.

Ngày 06 tháng 9 năm 2011, Cơ quan Thông tin Hội đồng Nhà nước phát hành một Bạch thư về việc phát triển hòa bình của Trung Quốc. Nó ít thu hút sự chú ý của quốc tế nhưng báo hiệu một bước ngoặt quan trọng tiến đến sự tiết chế trong cách tiếp cận của Bắc Kinh với vùng biển Đông. Bạch thư tái khẳng định hướng dẫn của Đặng Tiểu Bình "gác qua tranh chấp, theo đuổi phát triển chung " tại một thời điểm khi các nước khác quan tâm cao độ về ý định của Trung Quốc ở Biển Đông và các quan chức Việt Nam đã vận động trong ASEAN "làm cho Trung Quốc mất mặt và chọc thủng lỗ hổng trong câu chuyện tăng cường hòa bình của nó". Theo các học giả Trung Quốc, Bắc Kinh dự kiến báo cáo chính thức này sẽ làm giảm bớt lo ngại giữa các nước láng giềng Đông Nam Á và chứng minh rằng nó đã sẵn sàng thúc đẩy hợp tác để duy trì "một người hàng xóm tốt, bạn và đối tác của các nước châu Á khác".

Từ giữa năm 2011, các quan chức cấp cao đã nhiều lần tái khẳng định hướng dẫn của Đặng Tiểu Bình để đưa sang một bên tranh chấp hàng hải thúc đẩy hợp tác kinh tế. Trong cuộc họp với Tổng thống Philippines Aquino tháng tám năm 2011, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào nói, "các nước liên quan có thể đặt sang một bên tranh chấp và chủ động tìm hiểu các hình thức phát triển chung trong các vùng biển liên quan".

E. TRAO ĐỔI SONG PHƯƠNG CAO CẤP

Chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng giữa 11 và 15 tháng 10, 2011 đã xác nhận cách tiếp cận mới này. Trong đường dây chiến lược xoa dịu các tuyên bố chủ quyền với các ưu đãi kinh tế của Bắc Kinh, Nguyễn Phú Trọng được bảo đảm hỗ trợ kinh tế từ Trung Quốc trong suốt chuyến đi. Quan trọng hơn, hai nước đã ký một thỏa thuận song phương bao gồm sáu nguyên tắc cơ bản giải quyết các tranh chấp hàng hải, khẳng định cam kết ổn định khu vực và một giải pháp dựa vào luật pháp quốc tế, và thiết lập một cơ chế đường dây nóng quản lý bất kỳ cuộc xung đột nào sắp xảy ra. Trong quan điểm Trung Quốc, thực tế mà nói các cuộc đàm phán song phương được xem như là một chiến thắng. Chính thức, cả hai nước đã nhất trí ngăn chặn những chỉ trích công khai khác trong tranh chấp và tránh các loại lời lẻ có tính khích động đã làm gia tăng căng thẳng trong đầu năm đó. Bắc Kinh cũng dự định rằng, chuyến thăm đóng một vai trò làm dịu trong khu vực, và đáp lại với việc Phó Chủ tịch Tập Cận Bình công du đến Hà Nội vào ngày 20 Tháng 12, 2011. Kể từ đó, Trung Quốc và Việt Nam đã bắt đầu thực hiện các thỏa thuận của họ bằng cách thiết lập một nhóm làm việc để phân định ranh giới và phát triển phần phía nam của Vịnh Bắc Bộ gần quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp.

Đồng thời, Trung Quốc cũng đã tiến hành các bước để cải thiện quan hệ của nó với Philippines và làm dịu các vấn đề tranh chấp lãnh thổ . Trong thời gian chuyến thăm nhà nước Trung Quốc năm ngày của Tổng thống Aquino của Philippines bắt đầu từ 30 tháng Tám 2011, Bắc Kinh tìm cách làm dịu bớt căng thẳng khu vực với sự khích lệ kinh tế khi Aquino mang về nhà số vốn đầu tư theo kế hoạch của Trung Quốc trị giá 13 tỷ $, trong khi vấn đề Biển Đông chỉ được đề cập vài từ ngắn gọn trong tuyên bố chung.

Những thương lượng này với các nước Đông Nam Á là một phần của một nỗ lực có chủ ý của Bắc Kinh tập trung vào mối quan hệ của nó với khu vực. Khi Thủ tướng Ôn Gia Bảo phát biểu báo cáo công việc của mình với Quốc hội vào ngày 05 Tháng Ba năm 2012, quan hệ với các nước láng giềng ở vị trí ưu tiên trên tất cả các mối quan hệ quốc tế khác, bao gồm cả với các quốc gia phát triển hay các nước lớn, lần đầu tiên điều này đã được thực hiện.

VII. KẾT LUẬN

Sự thay đổi của Bắc Kinh hướng về một cách tiếp cận ôn hòa hơn trong Biển Đông vào giữa năm 2011 đã được bắt nguồn từ mong muốn sửa chữa một số thiệt hại trong mối quan hệ khu vực, điều mà đã dẫn đến mở rộng vai trò của Mỹ trong khu vực. Trong bối cảnh đó, Bắc Kinh đã xử dụng một vài bước làm giảm căng thẳng khu vực và nguy cơ xung đột ở Biển Đông. Bằng việc ký kết Hướng dẫn thực hiện DOC, Trung Quốc đã gửi một thông điệp tới ASEAN rằng nó đã không đóng cánh cửa cho các cuộc đàm phán đa phương. Bằng cách tham gia trong chính sách ngoại giao cao cấp vượt trội trong khu vực, nó đã giúp làm dịu cuộc chiến tranh từ ngữ. Bằng cách làm sâu sắc thêm mối quan hệ chính trị với Việt Nam, Bắc Kinh đã thể hiện sẵn sàng làm việc trên một trong số những mối quan hệ song phương khu vực gai góc nhất. Nó cũng xử dụng một số bước trấn an các nước láng giềng về chủ quyền lãnh thổ, còn đi xa hơn khi nói rằng nó sẽ trình bày một tuyên bố yêu sách dựa trên UNCLOS.

Tuy nhiên, về lâu dài, việc duy trì một phương pháp tiếp cận ôn hòa hơn sẽ rất khó khăn trong sự vắng mặt một chính sách bao quát nhất quán được thực hiện đồng bộ trong suốt các cấp độ khác nhau của chính phủ. Sự phát triển của các diễn viên trong thể chế trong việc quản lý biển Đông trình bày cả hai vấn đề : nguồn gốc căng thẳng và trở ngại to lớn đối với những nỗ lực ngoại giao của Trung Quốc để giải quyết tranh chấp. Ngoài vấn đề phối hợp, hầu hết các cơ quan liên quan đến diễn viên chính sách truyền thống trong nước với ít kiến ​​thức các ưu tiên chính sách của nước ngoài. Họ thường hành động độc quyền trong lợi ích riêng của họ, bỏ qua những tác động chính sách rộng lớn hơn. Hơn nữa, có rất ít quy phạm pháp luật rõ ràng về những gì chính xác là được che chở hoặc bảo vệ và chủ nghĩa dân tộc tiếp tục hạn chế lựa chọn chính sách của Bắc Kinh.

Trong khi phần lớn sự quyết đoán và sự cố trên biển ngày nay là một kết quả tự nhiên của việc Bắc Kinh không có khả năng vượt qua những thách thức cấu trúc, có lợi ích với sự mơ hồ, qua đó cho phép nó hành động quả quyết vào các thời điểm. Khả năng tạo ôn hòa cách tiếp cận của Trung Quốc với biển Đông giữa 2011 và 2012 cho thấy rằng nó có thể áp dụng một số kiểm soát đối với lực lượng hải quân và chính quyền địa phương khi nó lựa chọn như vậy, nhưng nhìn thấy một mức độ mơ hồ như trong lo ngại của nó, cho nó sự tự do để có một đường lối cứng rắn hơn khi thấy cần thiết.

Bất kỳ giải pháp nào cho tranh chấp Biển Đông trong tương lai, cần giải quyết các vấn đề của sự pha trộn đa dạng của các diễn viên Trung Quốc và xây dựng một chính sách hàng hải chặt chẽ và tập trung và chiến lược thực thi pháp luật. Các căng thẳng leo thang kể từ 2009 đã giáng một đòn nghiêm trọng đến mối quan hệ của Bắc Kinh với các nước láng giềng Đông Nam Á và làm hoen ố nghiêm trọng hình ảnh của nó ở khu vực và quốc tế. Trong khi một số nỗ lực đã được thực hiện để hàn gắn lại quan hệ ngoại giao kể từ giữa năm 2011, tình trạng lâu dài ở biển Đông sẽ vẫn còn dể thay đổi trong phương diện các vấn đề phối hợp nội bộ của Trung Quốc và sự nhầm lẫn pháp lý chung quanh đường lưỡi bò.

Bắc Kinh / Brussels, 23 tháng 4 năm 2012

Nhóm khủng hoảng quốc tế (Crisis Group) là một tổ chức độc lập, phi lợi nhuận, phi chính phủ, với một số 130 nhân viên trên khắp năm châu, làm việc thông qua các lĩnh vực dựa trên phân tích và vận động chính sách cấp cao để ngăn chặn và giải quyết xung đột chết người.

1    2    3   4    5

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.