Hợp tác từ sức mạnh. Hoa Kỳ, Trung quốc và biển Đông.

CHƯƠNG I.
Hợp tác từ sức mạnh : Chiến lược của Hoa Kỳ và biển Đông.


By Patrick M. Cronin and Robert D. Kaplan. The Center for a New American Security.
JANUARY / 2012.

Patrick M. Cronin là Cố vấn cao cấp và Giám đốc cao cấp của Chương trình An ninh châu Á-Thái Bình Dương. Trung tâm An ninh mới của Mỹ.
Robert D. Kaplan là một nhân viên cao cấp tại Trung tâm An ninh mới của Mỹ.


PHẦN CUỐI.

BHM Lược dịch.

IV. CHIẾN LƯỢC BIỂN ĐÔNG MỚI MẺ CỦA TRUNG QUỐC.

Trung Quốc bị thúc đẩy hướng khỏi khối đại lục của nó, nhảy vào Biển Đông bởi địa lý, lịch sử, tài nguyên và một mong muốn rõ ràng, kiểm soát một mình SLOCs quan trọng - các tuyến biển mà vấn đề là rất dễ bị tổn thương trong eo biển hẹp Malacca , cũng như những chổ hẹp khác ở Biển Đông như Lombok, Makassar và eo biển Sunda. Trong thực tế, nếu eo biển Malacca bị đóng cửa một ngày, sự gián đoạn trong việc cung cấp năng lượng có thể gây ra bất ổn xã hội ở Trung Quốc, theo một sỉ quan cuả Quân đội giải phóng nhân dân ( PLA ). Tính dễ bị tổn thương của eo biển Malacca bị gián đoạn làm cho Trung Quốc quan tâm đến việc lựa chọn các tuyến đường bộ để vận chuyển năng lượng và các loại hàng hoá khác.Trung Quốc gia tăng nhanh chóng đến điểm, ở đó hải quân nước xanh ( xa bờ ) đang trở thành có thể là tạo nên tình trạng không rỏ ràng ghê gớm về trật tự trong tương lai ở Đông Á.

Chiến lược của Mỹ sẽ trở lại chiến tranh thế giới thứ I, và đặc biệt là trong Chiến tranh Lạnh, tập trung vào ngăn chặn bất cứ quyền lực duy nhất nào thống trị khối lục địa Á-Âu. Tuy nhiên, khi kinh tế và sức mạnh quân sự chuyển từ phía Tây đến viển đông của lục địa Á-Âu , chứng kiến Euro khủng hoảng và sự bùng nổ tạo thành sức ép xã hội của ngân sách quốc phòng châu Âu - một Trung Quốc ghê gớm hơn sẽ không tránh khỏi tìm cách biểu lộ đặc tính dân tộc chủ nghĩa của nó, quyền lịch sử, kinh tế và nhu cầu tài nguyên, thông qua sự phát triển sức mạnh của hải quân. Sức mạnh hải quân của Trung Quốc, lần lượt, có thể dễ dàng tập hợp lại ở Biển Đông, ngã ba của Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Trung Quốc cũng gắn bó xây dựng một lực lượng hải quân nước xanh để giúp bảo vệ SLOCs của họ trên tất cả các con đường chung quanh các bờ biển tàu thuyền có thể đi lại từ Á - Âu đến vùng Sừng Châu Phi ( thuộc Ấn độ dương, cửa ngỏ vào Hồng hải để lên kênh đào Suez qua Đại Tây dương * BHM ). Sẽ không thể tách rời mong muốn của Trung Quốc giành được vùng biển để kiểm soát SLOCs từ một sự đe dọa nào đó hầu có lý do mở rộng hàng hải.

Trung Quốc có động cơ mạnh mẽ, bao gồm cả lý do mang tính lịch sử hợp pháp, để bảo vệ các tỉnh duyên hải giàu có ở Biển Nam Trung Hoa của họ, khu vực cấu thành khoảng một nửa tổng đường bờ biển . Sự rất giàu có của các tỉnh này phụ thuộc vào tuyến đường biển an toàn ở Biển Đông, điều mà chắc chắn là mong muốn thuộc quyền của Trung Quốc để bảo vệ. Hơn nữa, đại đa số nhập khẩu năng lượng của Trung Quốc và các hàng hóa khác đi thông qua Biển Đông, và Rogers lập luận ở những nơi khác trong đề tài này, ngay chính biển Đông nắm giữ một món quà to lớn về nguồn cá, hydrocacbon và khoáng chất.

Món tiền tiềm năng này thúc đẩy các tranh chấp chủ quyền nếu không thì các hòn đảo sẻ trở nên vô giá trị.

Trung Quốc dẫn đầu khu vực trong việc hiện đại hóa vũ khí, ngay cả khi họ cố giử một vẻ thanh bình để ngụy trang. Số lượng lớn lực lượng tàu ngầm của Trung Quốc là động cơ điện - diesel, trong khi Mỹ là hạt nhân. Tuy nhiên, tàu diesel-điện thường chạy êm hơn và có thể thực sự tốt hơn phù hợp với sự đông đúc, vùng biển u ám của duyên hải Đông Á. Trung Quốc có trên 60 tàu ngầm và sẽ có khoảng 75 chiếc trong vài năm sắp tới, nhiều hơn một chút so với Hoa Kỳ (và chỉ có khoảng 55% tàu ngầm của Mỹ sẽ được đóng quân ở Thái Bình Dương). Theo hai chuyên gia hải quân , Trung Quốc đã được xem là "căn nhà phụ" ( hàm ý gần như là nhà kho so với nhà chính * BHM ) của Hoa Kỳ về các loại tàu ngầm mới bởi kế hoạch " 4-1 " kể từ năm 2000 và "8-1" từ năm 2005, ngay cả khi lực lượng chiến đấu chống tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ đã bị giảm bớt.

Những nhà bình luận và các quan chức Trung Quốc phủ nhận bất kỳ ác ý nào đối với Hoa Kỳ trong Biển Đông và ca điệp khúc thường nghe rằng tư duy tổng bằng không là một di tích của quá khứ. Tuy nhiên, mặc dù chiến tranh lạnh là lịch sử, quyền lực chính trị lại là không như thế. Những phủ nhận này như việc đeo mặt nạ che giấu những lợi ích quốc gia của Trung Quốc. Mặc dù về phương diện lịch sử, Trung Quốc đã có một sức mạnh trên đất liền trong việc dòm ngó vào lục địa Á-Âu, nó ngày càng sẵn sàng để trở thành một cường quốc hải quân, một xu hướng tạo điều kiện thuận lợi do sự thành công của Trung Quốc trong việc nới lỏng căng thẳng trên nhiều biên giới đất liền .

Trải qua ba thập kỷ, Hải quân của Quân đội Giải phóng Nhân dân đã phát triển từ một lực lượng phụ trợ hỗ trợ hoạt động đổ bộ chống lại Đài Loan đến một lực lượng hải quân phòng thủ ngoài khơi nước xanh, bắt đầu phát triển nhằm đẩy lực lượng hải quân nước ngoài ra khỏi khu vực " biển gần " của họ. Tài nguyên của Trung Quốc và lưu lượng hàng hóa chủ yếu thông qua các đại dương, và trong chừng mực tối thiểu , ý nghĩa này nói lên, vị trí địa lý xem ra là số phận.

Cho rằng hầu như tất cả các nước trong khu vực đều phụ thuộc vào Trung Quốc trên lãnh vực thương mại và phát triển kinh tế , hầu hết sẽ rất thận trọng trong các giao dịch của họ với Bắc Kinh - cho dù đó là dân chủ hay độc tài - và tạm thử tin vào các ý định tử tế của Trung Quốc.

Sức mạnh của Trung Quốc không chỉ là một vấn đề tàu ngầm và các phương tiện quân sự mới. Nó cũng dựa trên sức nặng nhân khẩu học của Trung Quốc, ưu thế kinh tế và trung tâm địa lý khu vực. Trung Quốc sẽ khát khao gây ảnh hưởng lên các mối quan hệ ở trong biển Đông để thích ứng với tầm vóc của nó như một quyền lực thống trị và để bòn rút những nhượng bộ hoặc các điều kiện thuận lợi khác.

Mặt khác, các nước gần gũi hơn dịch xa Trung Quốc, hơn thế họ cũng muốn phòng vệ chống lại sức mạnh của nó. Mặc dù Trung Quốc sẽ cố gắng để sử dụng sức mạnh cứng một cách nhẹ nhàng (ví dụ, bằng cách dựa trên luật thực thi dân sự chứ không phải là lực lượng hải quân để hỗ trợ các yêu sách hàng hải trong vùng biển Nam Trung Hoa), các nước láng giềng đôi khi nao núng ở ngay quyền lực mềm Trung Quốc, trong các hình thức viện trợ, thương mại và hợp tác. Những năm gần đây cho thấy rằng hầu hết các nước trong khu vực khẩn thiết mong muốn duy trì sự hiện diện tàu chiến và máy bay chiến đấu của Mỹ như một mạng lưới an toàn. Các quốc gia trong khu vực đều có quan tâm như nhau là không xem Hoa Kỳ tự khuấy động căng thẳng với Trung Quốc, đó là lý do tại sao, ngay lập tức sau khi Hoa Kỳ co gập cơ bắp , khu vực lan tràn những câu hỏi liệu Hoa Kỳ đang chủ mưu một cuộc chiến tranh lạnh mới. Các quan chức Trung Quốc đang tìm kiếm, như Taylor Fravel và Peter Dutton lập luận ở nơi khác trong đề tài này, khai thác sự e dè này bằng việc cân bằng các nổ lực không thường xuyên của sự quyết đoán qua nhiều buổi thao diển thường xuyên hơn với sự vổ về ngoại giao. Trung Quốc muốn ngăn chặn bất kỳ hành vi cân bằng nào mới nổi chống lại Trung Quốc .

Ngoài vị trí địa lý, có cái gì đó sâu sắc hơn đẩy Trung Quốc tiến vào vùng biển Nam Trung Hoa và ra bờ biển của Nhật Bản, Đài Loan, Philippines và Indonesia : Một phần của Trung Quốc chia tay với quyền lực Phương Tây, trong quá khứ tương đối gần đây, sau khi từng là một cường quốc và một nền văn minh thế giới hàng ngàn năm..

Trừ khi người ta hiểu những gì đã xảy ra ở Trung Quốc trong vòng 150 năm qua, sẽ là đơn giản khi người ta không thể hiểu những gì thúc đẩy Trung Quốc ngày nay đi vào Biển Nam Trung Hoa. Trong thế kỷ 19, Triều đại nhà Thanh đã trở thành Đông Á Bệnh Phu, Trung Quốc mất nhiều lãnh thổ của mình - các quốc gia phải triều cống cho Trung quốc ở phía nam như Nepal và Miến Điện thuộc về Vương quốc Anh; Đông Dương thuộc Pháp, Đài Loan , Hàn Quốc và Sakhalin thuộc về Nhật Bản và Mông Cổ, Amuria, Ussuria thuộc về Nga. Trong thế kỷ 20 đến lượt Nhật Bản thôn tính đẫm máu bán đảo Sơn Đông và Mãn Châu , tâm can của Trung Quốc. Điều này, ngoài những nổi sỉ nhục, đã ràng buộc Trung Quốc với các thỏa thuận đặc quyền ngoại giao vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, thông qua đó các quốc gia phương Tây giành quyền kiểm soát mổi phần của các thành phố Trung Quốc - cái được gọi là mở cửa hải cảng cho thương mại với nước ngoài.

Trung Quốc qua khỏi cơn ác mộng đó và đạt đến một đỉnh cao quyền lực nội địa và ổn định lãnh thổ chưa từng thấy kể từ triều đại nhà Minh vào thế kỷ 16 và triều đại nhà Thanh cuối thế kỷ 18, bây giờ là giai đoạn thúc giục hải quân ra biển để bảo vệ SLOCs của họ đến Trung Đông và từ đó bảo đảm sự thịnh vượng kinh tế của dân cư rộng lớn của nó. Trung Quốc thúc đẩy mạnh mẻ một không gian chiến lược mở rộng bằng một tuyên bố rằng nó không bao giờ có ý định để cho phép người nước ngoài có lợi thế như từng đã xảy ra trong thời gian trước đó hai thế kỷ.

Một khi Trung Quốc có thế lực đầy đủ, Trung Quốc đối với Biển Đông sẽ là những gì mà Hoa kỳ mới độc lập đã từng với Greater Ca-ri-bê (bao gồm cả Vịnh Mexico) - dùng bạo lực và lộ rỏ biểu tượng quyền bá chủ khu vực. Hãy nhớ rằng, sự thống trị có hiệu quả ở vùng vịnh Greater Caribbean đã cung cấp chiều hướng thống trị của Mỹ ở thế kỷ 20 trên Tây bán cầu, với sức mạnh có thừa để ảnh hưởng đến cán cân quyền lực ở Đông Bán cầu. Một cái gì đó tương tự có thể xảy ra khi Trung Quốc trở thành bá chủ Biển Đông. Thật sự là Ca-ri-bê đã không được nhắc đến một cách nổi bật trong chính trị quyền lực trong một thế kỷ, đó là vì ảnh hưởng của một giới người Mỹ cho rằng cứ công nhận như vậy , chứ không phải vì nó ít quan trọng hơn với bất kỳ lý do gì.

Yêu sách của Trung Quốc đối với Biển Đông, ngoài việc bắt nguồn từ địa lý, ít nhất còn nói rằng, là bắt nguồn từ lịch sử. Các nhà phân tích Trung Quốc cho rằng tổ tiên của họ phát hiện ra các đảo ở Biển Đông từ triều đại nhà Hán của Trung Quốc trong thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Họ cũng cho rằng trong thế kỷ thứ ba sau Công nguyên, một phái đoàn Trung Quốc sang Campuchia đã đề cập đến Hoàng Sa và nhóm đảo Trường Sa; rằng trong thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 14 (trong các triều đại nhà Đường và nhà Nguyên), nhiều bản báo cáo chính thức và không chính thức của Trung Quốc chỉ ra rằng Biển Đông ở trong ranh giới quốc gia của Trung Quốc ; rằng trong thế kỷ thứ 15 thông qua thế kỷ thứ 19 (nhà Minh và nhà Thanh), những bản đồ khác nhau bao gồm quần đảo Trường Sa trong lãnh thổ Trung Quốc; trong những năm đầu thế kỷ 20 (cuối triều đại nhà Thanh) Chính phủ Trung Quốc đã cố gắng áp đặt thẩm quyền trên quần đảo Hoàng Sa.

Những luận cứ cho rằng không có gì gọi là quyền trên thực tế mà các ngư dân Trung Quốc đã xử dụng trong vùng biển Đông trong nhiều thế kỷ cũng như những hồ sơ cụ thể mà họ đã quản lý các đảo, đảo nhỏ và những bải cát ngầm. Ngoài ra, các bản đồ chính thức khác nhau được thực hiện bởi chính phủ Quốc gia Quốc dân đảng trước và sau chiến tranh thế giới thứ II đã sáp nhập những vùng cạn nhô khỏi mặt nước ở Biển Đông vào lãnh thổ Trung Quốc. Những bản đồ này cũng có vạch đường đứt khúc chín đoạn lịch sử, đó là đường lưởi bò mà các nhà phân tích Trung Quốc tranh cải rằng nó có trước các giải thích của luật pháp quốc tế hiện nay. Như chúng tôi giải thích dưới đây, đường lưởi bò đòi hỏi khoảng 90% Biển Đông là thuộc Bắc Kinh.

Mối quan tâm lớn hơn của Trung Quốc ở Biển Đông và Đông Á có ý nghĩa trong thực tế và địa chính trị sẽ là điều gì ? Sau tất cả, Trung Quốc cũng quan tâm tới thương mại quốc tế như bất kỳ nước nào. Sự ổn định xã hội phụ thuộc vào một dòng chảy ổn định của nguồn tài nguyên và hàng hóa trong và ngoài Trung Quốc thông qua Biển Đông. Vì vậy, sự ổn định của Trung Quốc phụ thuộc vào nền kinh tế phát triển mạnh, trong đó, lần lượt, phụ thuộc vào thương mại với những nước khác. Trung Quốc cũng không có khuynh hướng đế quốc tham lam vô độ về lãnh thổ như đã được mô tả trong quan hệ quốc tế ở thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. (Trung Quốc, cùng một mức độ tàn ác nếu có dịp, chắc chắn là không có đế quốc Nhật ngay sau Minh Trị Duy Tân.)

Cho dù chế độ trong tương lai của Trung Quốc là dân chủ hay độc tài, nó có tầm quan trọng ít hơn chúng ta nghĩ , vị trí địa lý chiến lược của Trung Quốc vẫn như cũ.

Tuy nhiên, vị thế trung tâm địa lý của Trung Quốc với khu vực cho thấy nó sẽ đóng một vai trò tích cực hơn trong việc chỉ đạo các vấn đề khu vực. Đôi khi cách tiếp cận mạnh tay của Trung Quốc để quản lý nước sinh hoạt vùng châu thổ sông Mekong cũng có thể dự cảm đó là phương pháp tiếp cận của Bắc Kinh đối với các quốc gia duyên hải ở Biển Đông.

Trật tự của Trung Quốc hiện đang được duy trì bởi thể hiện được tính hợp pháp như tăng trưởng kinh tế. Nếu nền kinh tế của Trung Quốc tiếp tục phát triển mạnh mẽ - và đó là một chử NẾU lớn - Trung Quốc cũng có thể mong đợi các quốc gia khác từ bỏ một số quyền tự do cơ động qua việc mua bán, ở trong quyền bá chủ tốt bụng của Trung Quốc, hợp pháp hóa sự cai trị bằng một chế độ kỷ trị.

Một viên chức quân đội Trung Quốc đã cho rằng Trung Quốc chỉ sử dụng quân đội xâm lược khi nó yếu, trong những năm đầu của Cộng hòa nhân dân Trung Quốc, trong cuộc chiến tranh Triều Tiên và chống lại Ấn Độ. Tuy nhiên, phiên bản này của lịch sử bỏ qua điều, ví dụ, một Trung Quốc mạnh hơn dùng vũ lực khi Việt Nam đã choáng váng ở cuối cuộc chiến tranh Việt Nam. Chính xác hơn nửa là khi Trung Quốc chiếm đóng Quần đảo Hoàng Sa ở phía tây bắc Biển Đông, vùng biển hiện nay vẫn còn trong tranh chấp . Trung Quốc cuối cùng có thể phát triển dân chủ hơn, nhưng một Trung Quốc dân chủ hơn sẽ không nhất thiết bảo đảm một Trung Quốc ít quyết đoán . Một Trung Quốc Dân chủ có thể là về phương diện văn hóa và kinh tế sôi động và năng động hơn, với một ý thức tốt bắt nguồn từ chủ nghĩa dân tộc, và do đó có thêm vốn để dành cho việc mua sắm quân sự. Ngược lại, một Trung Quốc tiếp tục độc tài, hoặc thậm chí bán độc tài, đường lối xử sự sẽ bộc lộ một mức độ xâm lược có thể ảnh hưởng đến các nước trong khu vực hợp tác với nó. Cho dù chế độ trong tương lai của Trung Quốc là dân chủ hay độc tài, nó có tầm quan trọng ít hơn chúng ta nghĩ, vị trí địa lý chiến lược của Trung Quốc sẽ vẫn như củ.

Mấy ai tin rằng Trung Quốc tìm kiếm xung đột. Thật vậy, điều ngược lại đã xuất hiện là các trường hợp..... Trung Quốc có thể thích một cách tiếp cận gián tiếp và có thể mong muốn ảnh hưởng mà không bao giờ phải dùng đến sức mạnh vũ phu. Nếu Trung Quốc có thể làm nghiêng cán cân quyền lực có lợi cho nó, nó ngày càng có thể thống trị các nước láng giềng nhỏ hơn trong khi từng bước gia tăng quấy rối Hải quân Hoa Kỳ - và tiếp tục tiến ra phía sau dảy đảo đầu tiên của Tây Thái Bình Dương.

Các chuyên gia về khu vực mô tả điều này như là "Finlandization" ( chiếm đoạt bằng đường lối thân thiện ). Thuật ngữ này được xác định bởi sự mơ hồ của nó : Sự thống trị của Liên Xô trên chính sách đối ngoại của Phần Lan trong thời Chiến tranh Lạnh nói chung là không công khai. Tuy nhiên, Phần Lan biết có những tuyến nó có thể không chấp nhận, và do đó chủ quyền của nó được dàn xếp minh bạch..

Điều này chính xác là những gì Việt Nam, Malaysia, Singapore, Brunei và Philippines đang sợ hãi. Đài Loan, ở cực bắc Biển Đông , có thể đã ở trong từng giai đoạn của Finlandization, với 1.500 tên lửa đạn đạo tầm ngắn tập trung vào nó từ Trung Quốc đại lục, ngay cả khi hàng trăm chuyến bay thương mại mỗi tuần liên kết nó với Trung quốc.

Trung Quốc có thể tìm cách thống trị các nước láng giềng thông qua một sự kết hợp cưỡng chế và hợp tác. Ian Storey lập luận trong chương của ông ấy ở đề tài này, chính sách Trung Quốc được đoán trước và sẽ y như thế, xen kẽ giữa các cam kết "hảo hảo" là mở rộng ảnh hưởng, một số người trong khu vực Đông Nam Á đặt tên cho chính sách của Trung Quốc một cách khôi hài là "nói và nẫng" ( talk and take ). Thời hạn tạm dùng chiêu thức Finlandization cũng có thể giải thích rỏ phương cách Trung Quốc ép buộc các nước láng giềng. Sau hết, nếu Trung Quốc có thể làm giảm mong muốn của các nước láng giềng hoặc khả năng làm việc với Mỹ như là một đối trọng với quyền lực Trung Quốc, kế đến nó có thể thực thi quyền lực trong khu vực thậm chí như buộc một Đài Loan bị cô lập chấp nhận tái thống nhất nhanh hơn. Ngay cả khi đồng minh lâu đời của Mỹ không có khả năng giử vững vị thế trước ảnh hưởng quyền lực kinh tế và quân sự gia tăng của Trung Quốc. Trung Quốc đã luôn là một bóng mờ trên hiệp ước đồng minh Mỹ - Thái Lan, và một Philippines cầm quyền một cách yếu ớt có thể một ngày nào đó không chống nổi ảnh hưởng của Trung Quốc mặc dù tuyên bố trái ngược nhau về quần đảo Trường Sa.

Nếu nền kinh tế Trung Quốc có thể tiếp tục phát triển, hương vị của những phát triển này lại là sự tụt hậu. Trung Quốc luôn cự tuyệt các nỗ lực quốc tế hoá các tranh chấp biển Đông thông qua các diễn đàn đa phương. Bằng cách giải quyết tranh chấp song phương, Trung Quốc có thể chia rẻ và chinh phục, cơ chế đa phương đặt Trung Quốc ở một vị trí yếu hơn. Khi Trung Quốc nhìn thấy các quốc gia trong khu vực bắt đầu liên kết lại trên một chính sách chung trong việc duy trì nguyên trạng các lãnh thổ trong mùa hè 2011 ( do Hoa Kỳ tạo điều kiện thuận lợi ), Trung Quốc đã thay đổi câu chuyện bằng việc chấp nhận một bộ hướng dẫn thực hiện mơ hồ về Tuyên bố Ứng xử không ràng buộc đối với các bên ở Biển Đông. DoC. Điều này thay thế ( cản trở ) sự dàn xếp của các nhân tố trong khu vực khăng khăng về cơ chế đa phương. Trung Quốc sau đó đã sắp xếp cải thiện quan hệ song phương với hai quốc gia tranh chấp om sòm nhất ở Biển Đông, Việt Nam và Philippines. Rõ ràng sự đe dọa quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông và chiếu một ngọn đèn sáng công khai vào các hành động của Trung Quốc gây nên hiệu ứng đưa Trung Quốc thu
mình vào trong các hành động ngoại giao.


V. DUY TRÌ AN NINH HÀNG HẢI VÀ LUẬT PHÁP QUỐC TẾ Ở BIỂN ĐÔNG.

An ninh hàng hải đã thống trị nhiều chương trình nghị sự ngoại giao gần đây trong khu vực Đông Nam Á, bao gồm cả diễn đàn khu vực ASEAN năm 2010, 2011 và có liên quan đến các cuộc họp tại Việt Nam và Indonesia. An ninh hàng hảitrong cả hai phạm vi quân sự và thương mại dân sự bao gồm ba khía cạnh : cạnh tranh lãnh thổ và tuyên bố chủ quyền, đặc biệt là trong hai nhóm đảo chính, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ; quyền hàng hải căn bản, khi các nước dựa trên những căn cứ khác nhau cho yêu sách của mình và cũng tìm cách tán thành luật pháp quốc tế được giải thích bởi Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và tự do của ngành hàng hải, bao gồm kiểm soát các SLOCs và những gì có thể hoạt động trong vùng Đặc quyền kinh tế (EEZ) của bất kỳ quốc gia cụ thể nào.

Mặc dù căng thẳng an ninh hàng hải đã leo thang ở Biển Đông cách nay hai ba năm, chúng vẫn còn ít trực tiếp đụng độ quân sự hơn so với các tranh chấp bùng lên từ năm 1988 và năm 1995, trong đó bao gồm những cuộc đụng độ giữa Trung Quốc với Việt Nam trên Rạn san hô Johnson South và giữa Trung Quốc với Philippines trên Rạn san hô Mischief. Điều này đặt ra câu hỏi về lý do tại sao các quốc gia này chuyển sang đối đầu quân sự nhanh hơn trong thời kỳ trước. Có lẽ trong thời gian đó, nổi lên vào giai đoạn cuối, và trong hậu quả tai hại tức thì của Chiến tranh Lạnh, các quốc gia cảm thấy tự do hơn để sử dụng lực lượng quân sự mà không sợ rằng mổi trận đánh có thể thúc đẩy các bóng ma của một đối đầu hạt nhân. Hơn nữa, đấy là trước kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay.

Các quốc gia ngày nay đang sử dụng sức mạnh cứng nhẹ nhàng và gián tiếp hơn, bưng bít thông tin về những sự cố lãnh thổ xa xôi, tiến hành hoạt động quân sự ra ngoài tầm mắt công chúng (đặc biệt là dưới đại dương và trong không gian mạng), hoặc kiên nhẫn theo đuổi đều đặn hiện đại hóa quân đội.

Các nước trong khu vực, đặc biệt là các thành viên của ASEAN, muốn Hoa Kỳ ở lại tham gia và hiện diện quân sự để duy trì một sự cân bằng quyền lực hàng hải. Tuy nhiên, các nước này cũng đã lộ ra sự phòng thủ thông qua chương trình hiện đại hóa quốc phòng sâu sắc hơn và những thỏa thuận quốc phòng với mổi quốc gia khác. Điều này giúp giải thích lý do tại sao các nước châu Á nói chung là dẩn đầu thế giới trong việc hiện đại hóa lực lượng quân sự của họ, đặc biệt là không quân , hải quân và các lĩnh vực không gian mạng.

Việc hiện đại hóa này nhìn thấy rõ ràng nhất trong chuyện mua lại hoặc quan tâm đến việc mua lại tàu ngầm. Bất cứ thứ gì trong khả năng công nghệ của những chiếc tàu ngầm, giúp tạo ra sự do dự trong tâm trí đối thủ hùng mạnh rằng chúng dể dàng bị nhấn chìm. Khi Việt Nam đầu tiên công bố công khai mua sáu tàu ngầm lớp Kilo của Nga (cùng với sự hỗ trợ của Nga tân trang lại cảng vịnh Cam Ranh , nơi những tàu ngầm sẽ được neo đậu vào năm 2013), nói chung, người ta thừa nhận rõ ràng rằng Việt Nam đã mua chúng để trông chừng các nước láng giềng - đặc biệt là Trung Quốc - kể từ sự can thiệp chủ quyền với Việt Nam.

Tất nhiên, Trung Quốc dẫn đầu khu vực trong việc hiện đại hoá quân sự, và nó lộ rỏ ý đồ triển khai một loạt các nền tảng hải quân và không quân, tên lửa, vũ khí chống vệ tinh và khả năng chiến tranh mạng, điều có thể gây nguy hiểm cho mạng lưới chiến trận công nghệ cao của Mỹ. Mặc dù các nhà phê bình lưu ý một cách đúng đắn về những hạn chế của một số hệ thống hiện tại của Trung Quốc ( ngay cả loại đa chức năng DF-21D, sát thủ "tên lửa đạn đạo chống tàu sân bay" ), dường như có khả năng rằng một Trung Quốc cương quyết và thịnh vượng hơn rốt cuộc sẽ khai thác các khả năng cần thiết để theo đuổi một chiến lược khu - vực - khắc - chế đe dọa đến quyền xử dụng mở rộng vào vùng hàng hải này.

Mặc dù xây dựng quân đội, Trung Quốc đã tìm cách làm giảm mối quan tâm về an ninh hàng hải và tăng cường thiện chí và tin tưởng. Theo đề nghị thành công của Trung Quốc trong Diễn đàn khu vực ASEAN năm 2011 và các biện pháp xây dựng lòng tin tiếp theo của nó với Việt Nam và đầu tư mới ở Philippines, Trung Quốc tỏ ra hoàn toàn có khả năng pha trộn sự quyết đoán chốc lát với ngoại giao vổ về hơn và các hoạt động kinh tế. Hơn nữa, trong khi gần như tất cả các quốc gia chia sẻ một số mức độ lo lắng về tăng trưởng quyền lực của Trung Quốc, họ cũng được hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế và thương mại của Trung Quốc, và thương mại - một cái gì đó mà Hoa Kỳ đã không mạnh mẻ nhấn mạnh trước những xôn xao gần đây về các hiệp định thương mại và vai trò đầu tàu tại Hội nghị thượng đỉnh Hội đồng Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương ở Hawaii, tháng 11 năm 2011 - là sự thịnh hành các lĩnh vực tại Châu Á. Năm 2011, thương mại của Trung Quốc với các nước ASEAN đã vượt khỏi 400 tỷ USD và đang lớn thêm.

Sự cân bằng sức mạnh quân sự sẽ cung cấp nền tảng bảo đảm tự do cho Việt Nam, Đài Loan, Philippines, Indonesia, Singapore, Malaysia và Brunei - cũng như cho những nước khác bên ngoài khu vực, bao gồm cả Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc. Duy trì một sự cân bằng quyền lực thuận lợi đòi hỏi có đủ tàu chiến và máy bay chiến đấu để bảo đảm rằng Hoa Kỳ giữ lại một đường biên giới chất lượng đủ thẩm quyền, ít nhất là trong nhận thức của giới tinh hoa quân sự ở Trung Quốc và các nước Mỹ tìm cách trấn an.

Mặc dù các quan chức quốc phòng Mỹ vẫn còn tự tin về khả năng Mỹ, nhiều người trong khu vực đang lo lắng bởi các chiều hướng hiện hành. Những nước khác bên ngoài Biển Đông, đặc biệt là ở Nhật Bản, Ấn Độ và Australia, đo lường sức mạnh Mỹ không chỉ bởi số liệu kinh tế mà còn bởi khả năng đáp ứng những thách thức của Mỹ trong Biển Đông. Như một nhà ngoại giao cao cấp Đông Nam Á đã cảnh báo người của chúng ta, nếu Hoa Kỳ rút một tàu sân bay trong nhóm tấn công từ Tây Thái Bình Dương, nó sẽ là một "trò chơi thay đổi", đẩy các quốc gia duyên hải tiến tới Finlandization. Điều này không là chi tiết nhỏ. Một nhóm tấn công đơn lẻ bao gồm một tàu sân bay, các tàu tuần dương, các tàu khu trục, các tàu khu trục loại nhỏ và tàu ngầm. Với chỉ 11 nhóm tấn công như vậy giăng khắp toàn cầu, sự mất mát của cả một ở châu Á, như nhà ngoại giao cảnh báo một cách chính xác, sẽ có tác động lớn. Những nhóm hạm đội tấn công, đơn giản chỉ là nguyên tắc tổ chức của sức mạnh hải quân Mỹ.

Triển vọng củng cố năng lực của các nhân tố khác trong khu vực để cam đoan thực hiện trách nhiệm nhiều hơn nửa ngỏ hầu cung cấp an ninh hàng hải trong khu vực là gì ?

Như James Holmes lập luận trong chương của ông ấy ở đề tài này, liên minh mạnh nhất khi hai hoặc nhiều nước chia sẻ một mối đe dọa chung cũng như mục tiêu chung. Các liên minh lỏng hơn, bao gồm những nước ngầm chia sẻ hoặc không chính thức chia sẻ một mối đe dọa chung cũng như mục tiêu chung, các nước này khó khăn hơn để hình thành và ít có khả năng nhảy vào hành động mà không có một biến cố khai chiến rõ ràng. Tại các khu vực ven biển chung quanh Biển Đông, Hoa Kỳ tìm cách củng cố liên minh cũ với các nước như Philippines và tiến tới những cũng cố mới với các nước như Việt Nam và Indonesia tại cùng thời điểm chính xác khi sức mạnh hải quân của họ đang thu nhỏ trong những điều kiện lịch sử. Liên minh Mỹ đang xây dựng do đó phải đối mặt với một trở ngại tăng gấp đôi.

Một số sắc thái địa chính trị là cần thiết ở đây. Như ví dụ của Việt Nam và Philippines cho thấy, nếu Hoa Kỳ hy vọng thúc đẩy các quyền hạn mà chúng chia sẻ mối bận tâm trong việc tự do tiếp cận Biển Đông và sự ổn định ở đó, sau đó phải hiểu rằng Hoa Kỳ sẽ gặp phải kháng cự nếu nó ép quá nhiều. Ví dụ, Ấn Độ nghi ngờ Trung Quốc như bất kỳ nước nào, nhưng ngay cả như vậy, nó sẽ không muốn làm cho Trung Quốc thành một kẻ thù công khai. Có những giới hạn đơn giản về những gì các nước khác có thể làm bởi vì có vài nước sẽ muốn đối kháng với Trung Quốc. Mặc dù các quốc gia duyên hải không bị ảnh hưởng bởi suy giảm ngân sách quân sự giống như các quốc gia châu Âu, họ vẫn bối rối bởi có Trung Quốc là hàng xóm của họ và lớn nhất hoặc là đối tác thương mại lớn thứ hai..

Không một nước nào lo lắng về an ninh hàng hải của mình khi đối mặt với khả năng giảm bớt sức mạnh hải quân Mỹ như Việt Nam, quốc gia phải chịu một trận xô xát quân sự nhục nhã với Trung Quốc trong năm 1979 ở biên giới phía Bắc. Trong cùng năm đó, Việt Nam đã nhìn thấy đồng minh của họ, Liên Xô, từ bỏ nó trong thời điểm nó cần, do đó, Việt Nam khó có thể tin tưởng một liên minh với một quốc gia cách xa một nửa trái đất như Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Việt Nam đang háo hức cho một tiếp cận quan hệ đối tác gần hơn với Hoa Kỳ, có lẽ bắt đầu với một cuộc đối thoại chiến lược về cách ứng phó với Trung Quốc, nhưng cũng bao gồm cả hợp tác quân sự cụ thể hơn. Cuộc tập trận hải quân song phương với Việt Nam chắc chắn sẽ có được sự chú ý của Trung Quốc, và một bước như vậy không nên được thực hiện hời hợt, làm cho Trung Quốc nghi ngờ như đã từng với người hàng xóm phía nam trong suốt lịch sử của họ.

Trong thực tế, một cuộc diển tập hải quân chính thức - đầy đủ Mỹ-Việt vào lúc này sẽ bị khiêu khích một cách đặc biệt .Điều đó nói rằng, Hoa Kỳ và Việt Nam nhanh chóng chuyển đến gần hơn với nhau về các mục tiêu chiến lược. Sự phát triển này cũng là di sản của một cuộc chiến tranh giữa thế kỷ 20. Chính xác bởi vì Việt Nam đã vượt qua quân đội Mỹ trong những năm 1960 và 1970, thời thuộc địa không va chạm nhau và bây giờ có thể thõa mãn tâm lý Hoa Kỳ như là một đối tác ngoại giao ngang hàng.

Tương tự như vậy, có những hạn chế nghiêm trọng về những gì đối với Philippines, một hiệp ước đồng minh với Mỹ, có thể làm để tăng cường khả năng duy trì an ninh của mình. Như Holmes ghi chú, thực tế là thời kỳ 1960, tàu tuần duyên của Mỹ được bán cho Philippines và đã ngay lập tức trở thành kỳ hạm của hải quân nước này, nhấn mạnh những nhược điểm đó. Thông báo thêm một thuyền thứ hai sẽ sớm được chuyển giao cho Philippines vẫn để lại cho Hải quân Philippines chỉ với khả năng ven biển khiêm tốn nhất. Hơn nữa, mặc dù Nhật Bản và Philippine đã ký một quan hệ đối tác chiến lược, hỗ trợ của Nhật Bản nhiều nhất sẽ chỉ có thể liên quan đến khả năng bảo vệ bờ biển . (Tuy nhiên, khả năng phải bảo vệ bờ biển không được xem nhẹ: Hầu hết các lực lượng hải quân của thế giới thực sự bảo vệ bờ biển bởi vì đích thực có rất ít những khả năng bảo vệ xa bờ ).

Tiêu chuẩn hợp pháp quốc tế.

Luật pháp quốc tế và các chỉ tiêu cung cấp một nền tảng chung cho hợp tác, hành động hợp pháp và kỳ vọng quốc gia . Hòa bình và thịnh vượng phụ thuộc trên kỳ vọng có quy chuẩn và cơ chế pháp lý cho việc giải quyết một cách hòa bình các sự khác biệt. Sự trỗi dậy của Trung Quốc khuấy động mối bận tâm về tương lai toàn cầu hóa dựa trên tiếp cận thị trường mở và thể chế quốc tế. Trung Quốc không chỉ tìm kiếm đối phó với từng nước láng giềng nhỏ hơn mà còn viện đến pháp luật trong nước và các chính sách, bao gồm cả pháp luật 1992 của mình về quyền bao trùm bên trong và chung quanh Biển Đông, để xác định những gì là đúng hay sai. Trung Quốc muốn phê duyệt tàu thuyền nước ngoài có thể đi vào vùng đặc quyền kinh tế của nó và những nơi mà, chẳng hạn như tàu do thám của Mỹ, không thể vào vùng 200 hải lý . Tuy nhiên, hầu hết các nước hỗ trợ việc giải thích của Mỹ theo luật pháp quốc tế cho rằng quyền đi qua một cách hòa bình như thế được phép theo UNCLOS.

Hoa Kỳ và hầu hết các nước ASEAN thích giải quyết sự khác biệt thông qua một thỏa thuận về cơ chế đa phương và khuôn khổ pháp lý liên quốc gia. Những yêu sách độc quyền chỉ có giá trị trong nội bộ Trung Quốc là chủ yếu dựa vào đường đứt khúc chín đoạn, đường lưởi bò hình chử U, vòng theo phía nam bờ biển Trung Quốc, sát biên giới Việt Nam và Malaysia theo hướng Singapore, sau đó vòng lên phía bắc dọc theo Sarawak và Sabah của Malaysia, Brunei và Philippines đến gần Đài Loan, do đó bao gồm toàn bộ trung tâm của Biển Đông. Tuy nhiên, là một trong những điểm phân tích, nhiều chuyên gia Trung Quốc chấp nhận rằng đường chử U này "không giải nghĩa đầy đủ chủ quyền trên toàn bộ biển Đông".

Trong thực tế, đường lưởi bò rất là mơ hồ, gây ra tình trạng căng thẳng như vậy trong số những quốc gia duyên hải. Các quan chức Trung Quốc chỉ ra rằng họ thừa hưởng đường lưởi bò lịch sử từ trước đó, các chính phủ không cọng sản trong những năm đầu của thế kỷ 20, và vẫn chưa giải thích rõ ràng làm thế nào mà chính Bắc Kinh lại liên quan đến tính hợp pháp của đường lưởi bò. Tuy nhiên, bất kỳ nhà lãnh đạo Trung Quốc nào mà thừa nhận rằng đường chử U không có tư cách pháp nhân sẽ trở nên cực kỳ dễ bị tổn thương từ các cuộc tấn công của những kẻ tôn thờ chủ nghĩa dân tộc trong nước.

Một vấn đề nửa là mức độ một số khiếu nại của Trung Quốc theo quy định của pháp luật quốc tế lại mâu thuẫn với những tuyên bố khác của Trung Quốc và liệu những tuyên bố này phải chăng là một sản phẩm phụ của một chính phủ không nhất quán.

Trong ngắn hạn, không rõ liệu Trung Quốc có đang theo đuổi một chiến lược phù hợp trong vùng biển Đông. Nhiều nhân tố khác nhau thực thi luật pháp Trung Quốc, bao gồm cả cơ quan dân sự và các chính sách cùng với báo cáo của họ không phải luôn luôn phối hợp tốt. Chính phủ Trung Quốc dường như đang cố gắng giải quyết vấn đề này bằng cách thiết lập một tiến trình liên cơ quan mới để phối hợp trách nhiệm của vô số quân đội và nhân viên dân sự của chính phủ họ vào trong đề tài biển Đông.

Trong phạm vi gắn kết chính sách lớn hơn này, sẽ giúp làm sáng tỏ những tuyên bố không rõ ràng của Trung Quốc - nhiều người trong số đó dựa trên tính năng đất ngập nước không đủ điều kiện theo luật pháp quốc tế được tính như hải đảo - các quốc gia khu vực có thể phát triển ngày càng yên tâm. Ví dụ, Trung Quốc có thể thu hẹp yêu sách từ các quyền lịch sử rộng rải đến tuyên bố một cách hợp pháp dựa trên UNCLOS, mô tả quyền hàng hải chung quanh các tính năng thuộc đất có trong Biển Đông. Từ quan điểm thuận lợi của Hoa Kỳ và những nước khác trong khu vực, không có biện pháp đơn giản để xây dựng đồng thuận về các quy tắc cho khu vực. Luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS hiện hành, có thể giúp đỡ, ngay cả nếu như Thượng viện Mỹ không phê chuẩn hiệp ước . Hoa Kỳ vẫn có thể khẳng định rằng nó nhận ra hầu hết các quy định của nó là pháp luật quốc tế dựa trên phong tục thông thường, và điều này sẽ là cơ sở cho Chiến lược hàng hải của Mỹ ở Biển Đông. Nó có thể tiếp tục để củng cố lập luận của phần lớn các bên đã ký kết UNCLOS hỗ trợ các hoạt động quân sự hòa bình trong vùng đặc quyền kinh tế, nhưng bên ngoài lãnh hải.

VI. HỢP TÁC TỪ TƯ THẾ SỨC MẠNH.

Hoa Kỳ cần phải hợp tác từ một vị trí của sức mạnh để bảo toàn một bối cảnh mở, dựa trên luật lệ trật tự khu vực. Một sự kết hợp tăng cường sự hiện diện hải quân Mỹ, đẩy mạnh các mối quan hệ an ninh non trẻ giữa các nước châu Á bên ngoài các liên minh truyền thống của Mỹ, huy động hợp tác đa phương trên những quy tắc đồng thuận phương cách, xây dựng một hệ thống thương mại khu vực mở và tạo dựng một mối quan hệ thực tế với Trung Quốc có thể duy trì tốt nhất một sự cân bằng thuận lợi cho hợp tác.

1. Đảo ngược sự suy giảm Hải quân Hoa Kỳ .

Mỹ nên dẫn đầu với ngoại giao và quyền lực kinh tế, nhưng những tài liệu chính thức về nghệ thuật lãnh đạo đất nước cần được hỗ trợ bởi sức mạnh quân sự.

Biển Đông là nơi xảy ra những sự kiện hải quân đầu tiên và quan trọng nhất, và mục đích cuối cùng của một hải quân hiện đại là để chuyển hướng sức mạnh không quân. Tuy nhiên, khả năng gia tăng của Trung Quốc đang đặt chiến sĩ hải quân Mỹ và các căn cứ cố định có nguy cơ và do đó đe dọa kết thúc một thời gian dài, trong đó hoặc Hoa Kỳ có thể kiểm soát hoặc có nguy cơ mất kiểm soát SLOCs ( thông tin liên lạc tuyến biển ) quan trọng. Do đó, khuyến cáo đầu tiên cho các nhà hoạch định chính sách của Mỹ là hảm lại sự suy giảm quyền lực hàng hải trong trật tự vẩn có thẩm quyền cân bằng quyền lực để kiểm soát một cách đáng tin cậy - hoặc ít nhất là bảo vệ quyền truy cập vào các SLOCs trong và chung quanh vùng biển Đông.

Trong chiến tranh hiện đại, bầu trời , biển, không gian và lĩnh vực không gian mạng, không có thể tách rời các lãnh vực này một cách dễ dàng . Chuẩn bị cho những cuộc tấn công vào các trận chiến quan trọng, những mạng lưới trong không gian mạng và vũ trụ và chống lại những tên lửa tầm xa tiến bộ của Trung Quốc, loại tên lửa có thể đánh tàu sân bay và các tàu khác trên biển (cũng như khắc chế an toàn của Hoa Kỳ , các cơ sở cố định lớn ) sẽ là nguyên tắc cơ bản bảo đảm đủ khả năng để đặt kế hoạch cho sức mạnh của Mỹ.

Mặc dù một số sẽ xem hiện đại hóa quân sự và hợp tác như trái ngược với hoà bình thịnh vượng, hệ thống giao dịch mở, chẳng hạn khả năng quân sự là rất cần thiết để ngăn chặn xung đột để cho thương mại và hợp tác có thể phát triển. Điều đặc biệt là càng nhiều quốc gia có được tàu chiến và tàu ngầm, kết quả tích lũy của những ngăn chặn tầm quốc gia như vậy có thể tăng cường hòa bình hơn nữa, hoặc ít nhất là sự vắng mặt của chiến tranh giữa các quốc gia, bằng cách đảm bảo rằng bất kỳ nước nào có thể trở thành quốc gia xâm lược, sẽ không thể chắc chắn chiến thắng dễ dàng . Quyền lực biển và tiến bộ kinh tế, nói cách khác, không nhất thiết phải xung đột với một quốc gia khác và có thể được biến đổi thành sự hổ tương cho một ổn định và phát triển Đông Á.

Báo cáo này không lập luận cho một Hải quân xa bờ và Không quân lớn hơn ngày nay, trong thời kỳ khó khăn kinh tế này.

Cũng không phải nhất định là nền kinh tế và ngân sách quốc phòng của Trung Quốc sẽ tiếp tục phát triển ở tỷ lệ hiện nay, một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Trung Quốc có thể chắc chắn không bị loại trừ. (Mặc dù nhiều dự đoán về hạ - giảm đã không được sinh ra, không ai có thể dự đoán tương lai.) Tuy nhiên, Hải quân và Lực lượng Không quân, ở mức tối thiểu, vẩn giữ được khả năng hiện diện của họ ở Thái Bình Dương. Hoa Kỳ không thể đủ khả năng để giảm số lượng tàu sân bay của nó, lực lượng vũ trang hoặc máy bay tầm xa dành cho khu vực này. Khi khả năng quân sự của Trung Quốc tiếp tục phát triển trong suốt thập kỷ này, Hoa Kỳ nên xây dựng với đội tàu 346 tàu được đề nghị trong năm 2010 của nhóm hội thẩm độc lập xét duyệt Quốc phòng lưởng đảng - nền kinh tế cho phép - chứ không phải là rút xuống 250 tàu bởi dấu ấn được thảo luận trước đó.

Hơn nữa, Hoa Kỳ nên bố trí nhiều hơn tàu khu trục và tàu ngầm - chứ không phải chỉ có tàu chiến đấu duyên hải nhỏ hơn - đến vùng biển Ấn độ dương - Thái Bình Dương. Tàu chiến đấu duyên hải thì tốt cho các đối tác ASEAN tham gia với lực lượng hải quân nhỏ, nhưng các tàu chiến lớn hơn thì tốt hơn trong việc cung cấp các thuộc tính cần thiết để ngăn chặn khả năng quân sự Trung Quốc ngày càng tăng.

Chúng tôi nhấn mạnh rằng đội tàu 346 chiếc được đề nghị bởi nhóm Hội thẩm độc lập là một mục tiêu tầm xa tốt nhất và điều đó khôi phục lại một nền kinh tế mạnh mẽ - qua đó bất kỳ biện pháp quốc phòng nào được thành lập - phải là một ưu tiên chiến lược đối với Hoa Kỳ. Giả sử nền kinh tế khỏe mạnh tăng trưởng trong tương lai, Hoa Kỳ nên đầu tư một hải quân lớn hơn.

2. Cổ vủ một mạng lưới các đối tác an ninh mới .

Xây dựng một mạng lưới phân phối với các đối tác mạnh mẽ hơn và các đồng minh ở Đông Nam Á phải là một mục tiêu quan trọng dài hạn của Hoa Kỳ. Thay vì cố gắng để được là trung tâm của tất cả các mối quan hệ này, Hoa Kỳ có một mối lợi ích trong việc chia sẻ gánh nặng với các đối tác mới có tiềm năng, và giúp ngăn chặn một khuynh hướng chi phối nhiều hơn các năng lực tiềm tàng và các mối quan hệ. Khi khu vực ngày càng cũng cố phòng vệ chống lại sự trổi dậy của Trung Quốc ngày càng tăng và lo ngại về khả năng tiết giảm của Mỹ, các nước châu Á đang ngày càng thiết lập các quan hệ đối tác an ninh mới với nhau. Mạng lưới liên kết phôi thai trong suốt khu vực - bao gồm không chỉ các mối quan hệ trong các quốc gia Đông Nam Á mà còn liên kết giữa các quốc gia đơn lẻ ở Đông Nam Á với các nước bên ngoài như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và Ấn Độ - cũng phôi thai và có khả năng cải thiện trong những năm tới. Mô hình mới mẻ của các quan hệ quyền lực này đang mở ra một kỷ nguyên mới với những tác động sâu sắc đối với cam kết cuả Mỹ dành cho khu vực.

Mô hình liên minh "trục và nan hoa" ( các chi tiết vành xe * BHM ) giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Thái Lan và Việt Nam đang bị lu mờ bởi một liên kết rộng hơn, phức tạp hơn và mạng lưới khuếch tán của các mối quan hệ trong đó các quốc gia châu Á là các nhân tố điều khiển chính. Ví dụ, cả hai nước Nhật Bản và Hàn Quốc đã công bố rằng họ tăng cường hợp tác an ninh với những nước khác trong khu vực, bao gồm Australia, Ấn Độ và một số thành viên của ASEAN, đây là những xu hướng chính xác mà Hoa Kỳ nên cổ vủ. Ngoài ra, như Ấn Độ và các trung tâm quyền lực khác nổi lên, tự thân khu vực chuyển đổi từ một Khu vực châu Á-Thái Bình Dương đến một khu vực Ấn Độ -Thái Bình Dương.

Chủ nghĩa Dân tộc trong các quốc gia ở biển Đông như Việt Nam và In-đô-nê-xi-a - cũng như ở các nước xa hơn như Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc - có thể là cơ sở tốt nhất cho việc nối lại với nhau những lợi ích chung lỏng lẻo, gần như vô hình, mạng kết nối các quốc gia có cùng khuynh hướng và tiềm năng hàng hải ngày càng tăng sẽ sẵn sàng giúp đỡ làm chệch hướng quyền bá chủ của Trung Quốc. Việt Nam có lợi ích trong việc không bị Finlandized bởi Trung Quốc. Indonesia có lợi ích trong việc bảo vệ nguồn dự trữ năng lượng rải rác ngoài khơi và nguồn cung cấp ngư trường. Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc có tất cả các quyền lực trong quyền hạn của riêng họ để cân bằng chống lại Trung Quốc. Dân tộc chủ nghĩa ngày càng tăng.

Giả sử kinh tế khỏe mạnh tăng trưởng trong tương lai, Hoa Kỳ nên đầu tư Hải quân lớn hơn.

Mặc dù một liên minh an ninh giống như NATO đã không có thể có trong khu vực châu Á và sẽ duy trì cả hai vấn đề khó giải quyết và không mong muốn trong tương lai, Hoa Kỳ đồng thời phải đẩy nhanh một chòm quan hệ an ninh sáng sủa mới nổi trên khắp khu vực Ấn Độ -Thái Bình Dương nói chung, trong khi củng cố năng lực hàng hải cơ bản của các đối tác tiềm năng, và các đồng minh Đông Nam Á nói riêng. Hai tuyến phát triển hổ tương này của việc xây dựng đối tác có thể cung cấp một biện pháp hửu ích và ít khiêu khích trong việc bảo tồn hòa bình đồng thời phá hỏng các kế hoạch của bất kỳ quốc gia nào có thể sẽ là nước xâm lược khu vực. Hoa Kỳ cần phải cổ vủ các liên minh và các đối tác chiến lược hiệu quả giữa chính các quốc gia khu vực châu Á-Thái Bình Dương với nhau, như các yếu tố khác có ý muốn giúp đỡ để hình thành một công ty nhưng điều kiện hợp tác là vì một Trung Quốc đang trỗi dậy. Một phân tán, tiềm lực quân sự kiên cường và mạnh mẽ hơn nên tận dụng khả năng giữ lại và bảo vệ cả hai eo biển phía Nam dẫn vào Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và những vị trí địa lý chiến lược quan trọng ngay bên ngoài Biển Đông (bao gồm cả đảo và đảo san hô vòng trong Quần đảo Riau, Palau, quần đảo Admiralty, Quần đảo Marshall và Solomon phía Bắc).

Những sắp xếp mới có thể cho phép Hoa Kỳ có các cảng thân thiện cho các con tàu của mình có được những vị trí vào ra tạm thời cùng các vật liệu thiết yếu hoặc các lực lượng quân sự thao diển. Trong nhiều trường hợp, các nơi này có thể được sử dụng thay cho các căn cứ và có thể yêu cầu thêm chút đầu tư để đạt được các mục tiêu cơ bản do sự tăng cường tình trạng không rỏ ràng của bất kỳ quốc gia nào có kế hoạch xâm lược. Rõ ràng, nếu các mối đe dọa trực tiếp được cụ thể hóa theo thời gian, sau đó các bước tiếp theo sẽ phải được thực hiện để đảm bảo rằng các thoả thuận truy cập mới và các bước hợp tác có được hiệu quả và linh động với các hoạt động tiềm năng. Hiện nay, Hoa Kỳ đang tiến về phía trước trong việc tăng cường năng lực của cả đối tác cũ và đối tác mới. Ví dụ, đã chuyển giao công nghệ, hướng dẩn các buổi thao diển nhiều hơn và trao đổi quân sự, và đàm phán sắp xếp quyền xử dụng nhiều hơn cho các lực lượng Hoa Kỳ trong các quốc gia hàng hải Đông Nam Á. Tuy nhiên, những nỗ lực không đi xa đủ.

Năng lực trong các quốc gia Đông Nam Á nhỏ hơn sẽ bị hạn chế bởi những thách thức trong nước và sự bắt buộc tranh đua trong việc cưu mang các hợp tác với Trung Quốc, một đối tác thương mại lớn đối với tất cả các nước trong khu vực bao gồm cả Hoa Kỳ. Để bây giờ, các mục tiêu nên tập trung vào tình trạng không rỏ ràng đang tăng cường ở bất kỳ kẻ xâm lược nào bằng cách xây dựng năng lực quan hệ đối tác hữu ích. Xây dựng lực lượng chức năng cảnh sát và bảo vệ bờ biển của các nước trong khu vực có thể khuyến khích họ chịu trách nhiệm nhiều hơn cho việc duy trì một sự cân bằng quyền lực và một hệ thống dựa trên luật lệ.

Philippines và, đặc biệt , Việt Nam là các nhân tố chính trong tương lai của Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa ). Mặc dù Philippines gần đây đã nhận được nhiều chú ý bởi việc chuyển giao tàu tuần tra duyên hải lớp Hamilton lão hóa của Hoa Kỳ và thông báo rằng một đợt thứ hai như vậy sẽ được thực hiện vào năm 2012, người ta có thể nói rằng, Việt Nam được cho là quốc gia chủ yếu đánh đu khi nói đến Biển Đông. Nếu Việt Nam không chống quyền lực đang gia tăng của Trung Quốc, những quốc gia yếu hơn và ít quyết đoán, chẳng hạn như Philippines, có rất ít cơ hội để ngăn chặn quyền bá chủ của Trung Quốc. Việt Nam đã chống lại quyền lực Trung Quốc trong suốt lịch sử của họ. Gần đây, Việt Nam đã chủ động tìm cách đạt được một mối quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ, nhưng nếu sức mạnh của Mỹ biểu lộ bị rút lui, Việt Nam sẽ không còn cách lựa chọn nào khác là sống với Trung Quốc bá chủ khu vực .

Đồng thời, Hoa Kỳ có một số lý do để thận trọng cảnh giác đối với việc quan hệ mạnh mẽ hơn với Việt Nam bởi vì Hoa Kỳ cũng cần hợp tác với Trung Quốc. Mối quan tâm chiến lược hàng đầu của Việt Nam là lập phòng tuyến chống lại Trung Quốc bất kỳ cách nào theo khả năng. Hơn nữa, Trung Quốc sẽ không phải không biết quan sát trực tiếp các hoạt động quân sự song phương, chẳng hạn như cuộc tập trận hải quân Mỹ-Việt, như là một sự khiêu khích được tuyên bố thông qua sự kết hợp quân sự, ngoại giao và các biện pháp kinh tế của riêng mình. Không ngẩu nhiên ( It is no accident ) mà Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được một thỏa thuận song phương tháng 10 năm 2010 để giảm căng thẳng. Thỏa thuận này cho phép Trung Quốc chứng minh rằng nó có thể giải quyết song phương với Việt Nam bất kỳ vấn đề gì và rằng Việt Nam không cần phải tìm kiếm sự giúp đỡ từ Hoa Kỳ.
( có thể kiểm chứng thông tin này Ở ĐÂY.....)


Bởi vì Hoa Kỳ cần phải duy trì hợp tác với Trung Quốc, những quan hệ đối tác chiến lược riêng lẻ của Mỹ ở Đông Nam Á có thể sẽ là xây dựng chủ yếu các khối của một liên minh khu vực tiềm ẩn mà sẽ chỉ kết hợp lại trong trường hợp một mối nguy hiểm hiện diện và rõ ràng . Quan hệ đối tác chiến lược dựa trên lợi ích chung mạnh mẽ (trong thực tế, ngầm liên minh) có thể được mạnh mẽ hơn so với các liên minh chính thức và ít có khả năng kích động phản ứng thù địch của Trung Quốc ( tương phản với lời lẽ khoa trương khó nghe ) điều sẽ phân cực khu vực. Điểm cuối cùng này là đặc biệt đúng đắn nếu khu vực tiếp tục xây dựng hiểu và hợp tác thực tế với Trung Quốc.

Hoa Kỳ cũng cần một chiến lược mạch lạc để phân phối lại sự hiện diện quân sự của mình trong suốt khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Tối thiểu, Hoa Kỳ cần phải bổ sung tiền đạo truyền thống của mình hiện diện tại Nhật Bản và Hàn Quốc cùng các khu vực khác mà chúng sẽ, ít nhất là về mặt lý thuyết, phá rối kế hoạch của Trung Quốc ( hoặc bất kỳ quốc gia nào ) chống lại Hoa Kỳ. Để duy trì một sự hiện diện quân sự mạnh mẽ trong khu vực, Hoa Kỳ nên tiếp tục tìm kiếm nhiều địa điểm, không phải là nhiều cơ sở : có nghĩa là, các thỏa thuận xử dụng quân sự khôn khéo chứ không phải là vương quyền ảo trên lãnh thổ nước ngoài. Lực lượng Hoa Kỳ cần phải vẫn còn ở Hàn Quốc và Nhật Bản, mặc dù vẩn có phạm vi tiếp tục cắt giảm những gánh nặng đặt trên nước sở tại, đặc biệt là trên đảo Okinawa, Nhật Bản, nơi đặt bản doanh của đại đa số các lực lượng Hoa Kỳ tại Nhật Bản với chỉ 6% lãnh thổ Nhật Bản. Duy trì các căn cứ lớn của Mỹ ở Đông Bắc Á cần phải được bổ sung bằng cách tạo ra tiềm năng lớn hơn và các khu vực đóng quân linh động hơn.

Do đó, sự phân tán hửu ích và làm cho tư thế lực lượng quân sự của Mỹ mạnh mẻ hơn trong suốt khu vực là cần thiết. Điều này phải được thực hiện trong phương pháp giảm thiểu những bất đồng, điều có thể làm cho các đối tác Hoa Kỳ dễ bị tổn thương trước những áp bức của Trung Quốc. Quyết định vào mùa hè năm 2011 để xác định vị trí hai tàu chiến đấu duyên hải tại Singapore là một ví dụ hàng đầu. Cho dù hai tàu này và thuyền viên có trụ sở tại Singapore hoặc chỉ thường xuyên đóng ở đó, mô hình này của sự hiện diện linh động có thể được theo đuổi với các quốc gia ASEAN khác, bao gồm cả Philippines và Việt Nam.

Úc, nằm tại ngã ba Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, có thể nổi lên như là đối tác quan trọng nhất của Mỹ trong tầm ảnh hưởng Anh quốc bởi vì vị trí của nó, thế kỷ 21, tương đương Vương quốc Anh thế kỷ 20 . Hoa Kỳ gần đây đã nâng cao thỏa thuận quốc phòng với Úc để cho phép quyền xử dụng lớn hơn các căn cứ quân sự Úc mà không cần quân đội Mỹ phải đóng quân thường trực ở đó. Trong chuyến thăm đến Úc trong tháng 11 2011, Tổng thống Obama thông báo rằng trong vòng một vài năm, 2.500 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ sẽ được liên tục luân phiên thông qua lãnh thổ phía Bắc của Úc, nơi họ có thể đào tạo lực lượng Quốc phòng Úc cũng như những quốc gia khác từ khu vực.

3.Tăng cường Định mức đa phương và Thể chế.

Hoa Kỳ cần phải bảo đảm rằng hòa bình và an ninh trong vùng biển Nam Trung Hoa vẫn còn ở phía trên chương trình nghị sự an ninh và ngoại giao của mình. Điều này có thể liên quan đến tất cả mọi thứ từ các cuộc họp tay đôi, chẳng hạn tại hội nghị hàng năm được tổ chức bởi Việt Nam tại Hà Nội, bộ máy chính thức liên quan đến ASEAN, trong đó có Diễn đàn Khu vực ASEAN và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Trung Quốc luôn miệng phản đối, củng cố bởi luật pháp của riêng nước mình và gia tăng quan hệ thương mại với các nước trong khu vực, nhận được một số hỗ trợ, càng nhiều càng tốt, Hoa Kỳ nên ngăn chặn lý lẻ của Trung Quốc từ những hệ quả lôi cuốn. Bằng cách khẳng định chủ quyền qua các làn đường trên biển - như đường lưởi bò - Bắc Kinh đã nhận lấy một vị trí mà không có quốc gia nào có thể ủng hộ. Mỹ có một cơ hội tự nhiên để nhấn mạnh những gì là sự quan tâm của tất cả các quốc gia trong khu vực.

Hợp tác từ một vị trí của sức mạnh liên quan đến việc sử dụng các phương pháp nói trên để tăng cường vị thế của Mỹ hầu thúc đẩy hiệu quả hợp tác đa phương. Một số khía cạnh về hợp tác cần phải hợp pháp hoá quy tắc đa phương, và các khía cạnh khác cần tập trung vào phạm vi hoạt động và các buổi thao diển hoạt động đa phương rộng hơn. Hợp tác nên bắt đầu với các cuộc đối thoại và cam kết ngoại giao. Với Campuchia, Miến Điện và Lào sẽ là chủ tịch ASEAN, tương ứng vào các năm 2012, 2014 và 2016, có thể trở thành không thực tế để mong đợi nhiều tiến triển tại Diễn đàn khu vực ASEAN và Hội nghị Cấp cao Đông Á trong vài năm tiếp theo bởi vì những quốc gia này chỉ có chút ít liên quan với vấn đề Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Quá trình Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN, tuy nhiên, cung cấp một diễn đàn đầy hứa hẹn cho việc thúc đẩy hợp tác hàng hải trong vùng biển Nam Trung Hoa. Các diễn đàn cấp cao khác mà có thể giúp thúc đẩy hợp tác như vậy bao gồm hội nghị quốc phòng cấp trưởng hàng năm của bộ tư lệnh Thái bình dương Hoa Kỳ, cũng như Đối thoại không chính thức Shangri-La được tiến hành bởi Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế vào mỗi tháng sáu.

Các tổ chức và cơ chế để giải quyết các mâu thuẫn và lợi ích vẫn còn yếu, và Hoa Kỳ không có vai trò trực tiếp trong một số tổ chức này, chẳng hạn như Tuyên bố ứng xử giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002. Những nỗ lực để thuyết phục Trung Quốc tránh những sự cố hàng hải thông qua cơ chế song phương hiện nay sẽ tiếp tục bị cản trở bởi một cuộc đụng độ cơ bản của quyền lợi : Trung Quốc chỉ đơn giản không muốn chấp nhận vai trò giám sát hợp pháp của Hoa Kỳ trong Biển Nam Trung Hoa ( Biển Đông ), không xa từ căn cứ tàu ngầm chính của Trung Quốc trên đảo Hải Nam.

Hoa Kỳ cần phải xây dựng các tổ chức đa phương trong dài hạn, nhưng nên thừa nhận rằng nó có thể cần phải tập trung vào song phương hoặc phương pháp tiếp cận khá khách quan trong thực tế để tránh khiêu khích Trung Quốc. Cách tiếp cận như mời gọi Trung Quốc hợp tác nhưng không thông qua một vị trí sức mạnh. Thông qua các tổ chức đa phương trong khu vực (từ Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á đến Hợp tác Quốc phòng ASEAN Tám + ) cùng với các sáng kiến ​​thực hiện bởi Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ hoặc các nhân tố khu vực như Úc, Hoa Kỳ nên xây dựng và hỗ trợ hiệu quả, bao gồm quân sự và hợp tác an ninh trên toàn Ấn Độ - Thái Bình Dương. Thúc đẩy hợp tác khu vực rộng hơn sẽ đứng vững như là một thách thức đối với bất kỳ hành vi ưa gây hấn nào trong tương lai.

Một đường lối thiết thực để tiến tới hợp tác toàn diện và nghiêm chỉnh, có lẻ là tiến hành tập trận hải quân đa phương, đặc biệt là tập trung vào hỗ trợ nhân đạo và các nhiệm vụ cứu trợ thiên tai. Hoa Kỳ đã tiến hành một loạt các buổi diển tập như thế trong những năm gần đây, như Holmes thảo luận trong chương của mình.. Hiện nay, hợp tác hàng hải xảy ra bên trong các tiểu vùng, chẳng hạn như Hội nghị chuyên đề Hải quân Ấn Độ Dương, Diễn đàn Nam Thái Bình Dương và ASEAN. Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ có thể tiến hành đối thoại định kỳ Ấn Độ - Thái Bình Dương rộng lớn hơn với thiết kế thúc đẩy các buổi thao diển và đào tạo đa phương . Tuy nhiên, như thảo luận ở trên, một liên minh các quốc gia Đông Nam Á tự nguyện - được hỗ trợ bởi các sức mạnh hàng hải bên ngoài như Nhật Bản, Ấn Độ và Úc - cũng có thể dẫn đầu trong một buổi thao diển đa phương như thế.

Trừ phi nổi lên những sự kiện đầy kịch tính về mối đe dọa và nhận thức mối đe dọa, không có triển vọng sắp hình thành một liên minh khu vực. Tuy nhiên, những quan hệ đối tác và liên minh song phương có thể được làm sâu sắc thêm, và chúng, có thể phục vụ như là một cơ sở ba bên rộng hơn hoặc hợp tác một phần giữa ba hoặc bốn quốc gia.. Ví dụ, sự sắp xếp dựa vào hợp tác mới giửa Úc - Hoa Kỳ có thể mở ra cánh cửa mới cho các buổi diển tập đa phương với các đồng minh và các đối tác khác, chẳng hạn như Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và các thành viên ASEAN.

Trong khi đó, hỗ trợ song phương có thể tạo ra các đối tác có khả năng nhiều hơn, và kể cả với các khía cạnh của cả hai vấn đề đối thoại chiến lược và hợp tác hàng hải thực tế, có thể phát triển thành một liên minh tiềm ẩn - một liên minh có thể nhanh chóng củng cố thành một đối trọng quyết đoán và xâm lược khu vực, chúng có nên nảy sinh.!

4. Đầu tư trong thương mại khu vực mở.

Hoa Kỳ cần thúc đẩy hơn nữa việc hội nhập kinh tế trong khu vực, cũng như giữa Hoa Kỳ và khu vực. Ngoài ra để góp phần vào một nền kinh tế khu vực dính liền và năng động, hội nhập kinh tế có thể liên kết đầu tư chiến lược của Mỹ với khu vực năng động nhất trên thế giới. Tiềm năng phát triển của quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương - một sự sắp xếp kinh tế liên kết Hoa Kỳ và các quốc gia Đông Á - một ngày nào đó có thể cung cấp chế độ ưu đãi thương mại như một chiếc dù (ô) vậy . Nếu Hoa Kỳ và những nước khác không thông qua hội nhập khu vực rộng rải như thế, một hệ thống dẫn đầu bởi Trung Quốc - và bất lợi cho Hoa Kỳ - cũng có thể xuất hiện để điền vào khoảng trống.

Mặc dù lãnh đạo của Hoa Kỳ tại Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương vào tháng 11 năm 2011 ở Hawaii nhấn mạnh tầm quan trọng của Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương, nhiều đồng minh gần nhất của Mỹ đã xem xét tốc độ chậm chạp mà Hoa Kỳ đã tham gia vào thương mại khu vực và tự hỏi liệu Hoa Kỳ có thành thật về một mối quan hệ đối tác như vậy. Sự thiếu nhận thức về cam kết cũng mở rộng sang các nước khác. Nhật Bản, ví dụ, đã vậy, đến nay chỉ được đánh giá cao là có điều kiện rằng nó sẽ trở thành một thành viên chính thức của quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương, và nếu không có các nước như Nhật Bản, Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương sẽ vẫn là một tổ chức nhỏ. Ngược lại, Úc, Việt Nam và Peru đã công bố hỗ trợ cho quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương trong tháng 11 năm 2008, Malaysia đã tham gia trong tháng 10 năm 2010; và Canada, Philippines, Hàn Quốc và Đài Loan đã bày tỏ mức độ quan tâm khác nhau trong việc tham gia.

Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương có thể hình thành cơ sở của một hệ thống, hệ thống kinh doanh mở, trong đó tất cả các nước của khu vực có cơ hội tham gia ngang nhau.

Thương mại không cần phải là một hoạt động tổng bằng không. Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương có thể hình thành cơ sở của một hệ thống, bao gồm thương mại mở, trong đó tất cả các nước trong khu vực có một cơ hội tham gia bằng nhau. Bởi vì Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương sẽ phát triển dần dần, Trung Quốc sẽ có rất nhiều thời gian để phản ứng và tạo ảnh hưởng đến quá trình phát triển của nó. Hơn nữa, Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương sẽ có lợi cho Trung Quốc nếu họ lựa chọn hỗ trợ tự do hóa thương mại.

5.Tiến đến quan hệ thực tế với Trung Quốc.

Hoa Kỳ sẽ cần phải chỉnh đốn lại chính sách đối với Trung Quốc. Điều này có thể sẽ yêu cầu hoạt động ngoại giao và tham gia kinh tế được hỗ trợ bởi một sức mạnh quân sự Mỹ và một nền kinh tế đang phát triển. Chính sách của Mỹ cũng nên cổ vủ các đồng minh làm nhiều hơn nữa trên danh nghĩa của họ trong lĩnh vực an ninh và nhiều hơn nữa với mổi vấn đề khác. Thay vì áp dụng một khuôn khổ hợp tác toàn cầu quá lạc quan - một mối quan hệ quá mức bi quan không thể tránh khỏi xung đột - Hoa Kỳ cần cứng đầu, thậm chí quyết đoán, chủ nghĩa hiện thực đối với Trung Quốc. Một chính sách thực tế bắt đầu bằng cách củng cố sức mạnh Mỹ, sau đó tích cực hỗ trợ dựa trên luật lệ hợp tác; tránh xung đột quân sự nhưng không mâu thuẩn ngoại giao.

Nhiều chính sách và hành động của Trung Quốc - bao gồm một sự miễn cưỡng đánh giá công bằng giá trị tiền tệ của nó, cố gắng thay thế đồng USD là đồng tiền dự trữ của thế giới, thiếu minh bạch quân sự, một số lượng báo động đáng nghi ngờ các cuộc tấn công không gian mạng , tiếp tục hỗ trợ chính trị và kinh tế cho Bắc Triều Tiên và thiếu thiện chí thực thi các biện pháp trừng phạt của Liên hiệp quốc đối với Bắc Triều Tiên - tất cả các điều này làm người ta cho rằng Trung Quốc muốn xác định lại trật tự khu vực . Ví dụ bổ sung có thể được quan sát trong những hành động gần đây của Trung Quốc ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông): đẩy mạnh các cuộc tuần tra hàng hải, gia tăng triển khai tàu ngầm và hay quấy rối các hoạt động thăm dò năng lượng của các quốc gia láng giềng, đặc biệt là Việt Nam và Ấn Độ. Những hành động này đã được nhìn nhận bởi hầu hết các quốc gia trong khu vực như là sự độc đoán đang gia tăng. Tuy nhiên, ngay cả khi nhận thức này là không đúng, như Fravel tranh luận trong tập san này, các nhân tố trong khu vực vẫn tiếp tục nghi ngờ tính thiếu minh bạch của Trung Quốc, tăng trưởng kinh tế đang bùng nổ và hiện đại hóa quốc phòng. Trung Quốc có thể không muốn kiểm soát toàn bộ khu vực, nhưng nó rõ ràng muốn trở thành là trung tâm của khu vực.

Trong tương lai, Hoa Kỳ sẽ phải xác định làm thế nào nó có thể giữ lại một mối quan hệ hợp tác tổng thể với Trung Quốc mà không làm mất cường lực quân sự của nó trong khu vực, để bảo vệ chống lại quyền bá chủ khu vực của Trung Quốc. Kinh tế và chính trị đa cực được hoan nghênh, nhưng vì lợi thế địa lý của Trung Quốc, nền quân sự đa dụng đưa tiềm năng của Trung Quốc trở thành quyền lực chi phối trên thực tế. Cách tốt nhất để bảo đảm một hệ thống dựa trên luật lệ, dựa trên thị trường mở là bằng cách đảm bảo rằng nước Mỹ vẫn giữ được ít nhất một số lợi thế quân sự đáng kể. Giữ lại hệ thống hàng hải đáng tin cậy và khả năng không quân trong khi đối mặt với thâm hụt ngân sách nghiêm trọng, tuy nhiên, sẽ đòi hỏi phải liên tục, hỗ trợ của lưỡng đảng từ một phạm vi rộng rải của những nhân vật quyết định chủ chốt từ cả hai đảng phái chính trị lớn của Hoa Kỳ.

VII. KẾT LUẬN.

Hoa Kỳ không được thừa nhận Biển Đông như là một phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc. Mặc dù nó sẽ yêu cầu xác định một lằn ranh rộng về sự chia xẻ an ninh quốc gia của Mỹ, Hoa Kỳ nên theo đuổi cả hai vấn đề : "tính ưu việt và hợp tác" ở Biển Đông. Hai mục tiêu này có thể xuất hiện mâu thuẫn với nhau, nhưng trên thực tế, tìm kiếm hợp tác lớn hơn trong khi bảo quản ảnh hưởng của Mỹ là một cách tiếp cận lâu dài an ninh khu vực - nếu bất thành văn.

Hoa Kỳ và các nước trong khu vực chia sẻ một mối quan tâm quan trọng trong việc quyền xử dụng trên biển không bị cản trở, và Mỹ sẽ không tha thứ hành động bè phái đơn phương của bất kỳ nhân tố nào để bắt nạt hàng xóm và làm xói mòn các quy tắc đã được thiết lập. Đừng rút lui, Hoa Kỳ nên tăng tốc việc tham gia chung quanh lưu vực duyên hải Biển Đông ( biển Nam Trung Hoa ). Chính sách của Mỹ nên tập trung vào sự hiện diện và liên minh, pha trộn ngoại giao với tham gia kinh tế. Như Ngoại trưởng Clinton nhấn mạnh: "Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nghệ thuật lãnh đạo của Mỹ trong thập kỷ tới, bắt buộc như thế, là đóng chốt trong tăng cường đầu tư thực chất - ngoại giao, kinh tế, chiến lược, và các lãnh vực khác trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương".

Với việc Trung Quốc phấn đấu để thống trị Tây Thái Bình Dương, các nước Đông Á nhiệt tình hơn bao giờ hết để hợp tác với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, những nước này cũng muốn tránh xung đột với một Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ mà cũng là một đối tác thương mại chính. Chiến lược lớn của Mỹ nên tập trung vào sức mạnh bảo tồn và sự tham gia ngày càng tăng trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, nơi cư trú của hầu hết các nền kinh tế năng động trên thế giới.

Hoa Kỳ nên rời bỏ việc xoay quanh những hành động chống khủng bố và chống nổi loạn ở Trung Đông lớn hơn và hướng đến Đông Á. Mặc dù Hoa Kỳ muốn cần phải giữ lại quyền lợi quân sự hợp tình hợp lý trong cả hai khu vực, chuyển sang Đông Á sẽ tiếp tục là một điểm căng thẳng dài lâu như Trung Quốc tiếp tục gia tăng. Mỹ sẽ luôn luôn là một quốc gia Thái Bình Dương, nhưng ngày càng hòa bình, và sự thịnh vượng cũng sẽ vẫn còn yêu cầu Mỹ là một quyền lực Thái Bình Dương .

Hoa Kỳ và các quốc gia trong khu vực chia xẻ một lợi ích sống còn là quyền xử dụng trên biển không bị cản trở, và Mỹ sẽ không tha thứ hành động bè phái đơn phương của bất kỳ nhân tố nào để bắt nạt hàng xóm và làm xói mòn các quy tắc đã được thiết lập.
1    2    3    4    5

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trung Quốc đang đụng đầu với khủng hoảng ?

Nỗi sợ ngân hàng gây thêm đau đầu cho nền kinh tế Trung Quốc.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông.